Sunday, 2025-07-13, 1:09 AM
Welcome Guest

3V CLUB

[ New messages · Members · Forum rules · Search · RSS ]
  • Page 1 of 1
  • 1
TỨ ÂN HIẾU NGHĨA
phuocdeptraiDate: Wednesday, 2010-11-17, 9:59 AM | Message # 1
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
SƠ LƯỢC VỀ ĐẠO TỨ ÂN HIẾU NGHĨA

Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, còn có tên là Đạo Lành, gọi tắt là đạo Hiếu Nghĩa, do Ngô Lợi (thường được tín đồ gọi là Đức Bổn Sư) sáng lập vào năm 1867 tại Ba Chúc, huyện Tri Tôn , tỉnh An Giang. Buổi đầu, đạo là một trong những phong trào Cần Vương, nhưng dùng hình thức tôn giáo để qui tập tín đồ và để che mắt thực dân Pháp, nhưng sau khi vua Hàm Nghi bị đày, Ngô Lợi mất, phong trào tan rã chỉ còn lại hoạt động tín ngưỡng..

Giới thiệu

Hơn 140 năm hình thành và phát triển, đạo Hiếu Nghĩa đã qui tụ gần 80.000 tín đồ, sống rải rác ở nhiều tỉnh, thành thuộc Nam Bộ, nhưng nhiều nhất là ở huyện Tri Tôn. Đây là đạo thuần túy nội sinh, tín đồ đa phần là nông dân.
Cũng như Phật Thầy Tây An (người sáng lập ra Bửu Sơn Kỳ Hương), Ngô Lợi chú trọng phát triển Phật giáo theo hình thức cư sĩ, nghĩa là tín đồ không cần “ly gia cắt ái” hay “đầu tròn áo vuông”, tín đồ mặc áo vạt hò, quần lá nem, bới tóc hoặc để xõa tự nhiên và tu đâu cũng được... Ít quan tâm đến giáo lý mà chú tâm nhiều việc thờ cúng và lấy Học Phật - Tu Nhân làm nền tảng cho việc hành đạo.

Tôn chỉ Tu Nhân: được thể hiện qua việc kính thờ và phụng sự tứ ân:
Tứ đại trọng ân bao gồm: đất, nước, gió, lửa.
Tứ trọng ân bao gồm: ân tổ tiên, ân đất nước, ân Tam bảo, ân đồng bào, nhân loại.
Ngoài việc kính thờ trên, người tín đồ còn phải hành xử việc Hiếu (hiếu thảo với ông bà tổ tiên) và việc Nghĩa (nghĩa vụ với đất nước, đồng bào và nhân loại).
Học Phật:
Là học những điều Phật giáo hóa chúng sanh, thành tâm phụng thờ và trì niệm Phật để cầu được giảm “tội, nghiệp”, được cứu độ và giải thoát.

Ngô Lợi tức Đức Bổn sư dạy:
Một lòng giữ vẹn tứ ân, Phụng thờ khuya sớm ân cần đừng sai. Gắng công niệm Phật hôm mai, Trì tâm thì đặng thiếc mài nên kim. hay:

Việc làm cho Phật, phước nhiều Cũng như hoa lại mai chiều nở vun. (Sám giảng Ngũ giáo) Ảnh hưởng: Ngoài đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, đạo Hiếu Nghĩa còn chịu ảnh hương các tôn giáo sau:
Phật giáo: Về tâm linh, đạo Hiếu Nghĩa chịu ảnh hưởng của Lâm Tế tông và Thiên Thai tông.
Đức Bổn sư viết:

Phật dạy lý chân không Vì sợ người chấp có. Bằng người lại chấp không, Như chụp thỏ buông ó. Người chấp vô thường tướng, Phật nói hữu thường tâm. Chẳng dè phương tiện pháp. Ao xuân hiện lỗi lầm. Yếu lý này thể hiện nhiều trong kinh giảng cùa đạo Hiếu Nghĩa.
Kinh Phật giáo được tín đồ đạo Hiếu Nghĩa trì tụng, đó là: Bát Dương kinh, Di Đà kinh, Kim Cang thọ mạng kinh, Phổ Môn kinh và Bổ khuyết Tâm kinh (được tín đồ đọc tụng thường xuyên). Đức Bổn Sư cũng cho phép, người ít hiểu biết chỉ cần tụng Linh Sơn hội thượng kinh cũng đủ. Ngoài ra, ông cũng khuyến khích tín đồ trì niệm chú, ấn pháp theo Mật Tông.

Đàn, ấn, chú là pháp chư Phật Người làm theo sẽ được hộ trì.
Nho giáo: Quan niệm Tu Nhân chịu ảnh hưởng rất nhiều của tư tưởng Khổng Mạnh.
Chữ Tu ở đây hiểu theo nghĩa “ Mạng trời gọi là tính, nương theo tính trời gọi là đạo, sửa mình theo đạo gọi là giáo” (Thiên mệnh chi vị tính, xuất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo. Trung Dung). Vậy, Tu Nhân tức là sửa mình theo đạo làm người (nhân đạo), mà đạo làm người không hề xa với đạo trời...

Trong sinh hoạt của tín đồ, có những việc có liên quan đến đạo Nho, như:

Thờ cúng đất trời. Xây dựng chùa chiền, nhà cửa theo số vị vận hành của Kinh Dịch. Các lễ tế, hôn sự, tang ma theo thể thức của Nho giáo. Thập Nhị lệ sự tức 12 điều lệ mà tín đồ phải tuân theo, được mô phỏng từ khuôn mẫu của đạo Nho.
Đạo Lão: Tư tưởng Lão giáo cũng là tư tưởng chủ đạo trong giáo thuyết của đạo Hiếu Nghĩa.
Người tín đồ phải nằm lòng những bài kinh sau: Tâm Ấn kinh, Động cổ kinh, Tam mao chơn kinh.

Động cổ kinh. (dịch nghĩa) Có động cũng xuất nơi không động. Hữu vi cũng xuất nơi vô vi. Vô vi thời thần về, thì muôn vật yên lặng. Bất động thì khí điều hòa. Khí yên lặng điều hòa, thì muôn vật không sanh. Tóm gọn, pháp môn tu hành của đạo hiếu Nghĩa là:
Trì niệm theo Thiền tông Xử sự theo Nho giáo. Luyện tinh, khí, thần theo Lão giáo.
Hành đạo


Trong đạo chia làm 24 Gánh nội thôn và 15 Gánh ngoại thôn, chỉ có ông Gánh (tức trưởng Gánh) mới có quyền thu nhận tín đồ, nhưng không quá cách biệt giữa giáo phẩm (ông Trò, ông Gánh) và giáo dân (tín đồ). Người tín đồ ngoài việc hành xử theo Tứ trọng ân và Thập nhị giáo điều (còn được gọi Thập Nhị lệ sự), còn phải lễ lạy và có hai thời (sáng từ 5 giờ đến 7 giờ sáng , và chiều từ 5 giờ đến 7 giờ tối) công phu (tụng kinh có chuông mõ. Kinh đọc được rút ra từ bộ kinh Siêu độ của đạo) và niệm pháp (lần chuỗi bồ đề).
Trong nhà của tín đồ thờ nhiều thứ, như: trên cùng thờ Quan Thánh, bên dưới thờ Hội đồng gồm Phật, Thánh , Tiên. Dưới nữa thờ Thập Vương, bàn Hộ pháp Vi Đà. Bên trái thờ Cửu phẩm, bên phải thờ Tam giáo v.v... Trước cửa nhà tín đồ có bàn thờ thông thiên hai tầng, tầng trên thờ Chánh đức thiên La thần và tầng dưới thờ Thổ Trạch Long thần.

Và trong nền đạo Hiếu Nghĩa, sự thờ cúng được coi là nguồn ân phúc thiêng liêng, giúp tín đồ tăng thêm lòng chánh tín, lấy hình thức chuyển vào nội tâm, đem nghi lễ hướng con người đến việc thực thi phúc lợi chân chánh.
Cúng Phật: bằng hương, đăng, hoa , trà, quả, các món chay. Phẩm cúng có ý nghĩa nhất là ngọt (chè xôi nước) và dẽo (xôi nếp)...
Cúng Thần: vật phẩm như cúng Phật, có thêm món cá, không được cúng các thức ăn từ thịt ngoài loài thủy tộc.
Cúng giỗ người mất: vật phẩm như cúng Thần.
Ngoài ra, tín đồ còn phải thường tham gia các lễ cúng chính ở chùa miếu, thành tâm cầu nguyện cho quốc thới dân an, cầu cho ông bà tổ tiên được siêu thăng tịnh độ v.v...

Nhận xét

Tuy cốt lõi trọng Tứ Ân, chuộng Vô vi (tôn chỉ của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương), nhưng đạo Hiếu Nghĩa vẫn còn “ham chuộng hình thức: nhiều buổi làm chay, đến nghe thuyết pháp, lãnh bùa mà đeo, có chuông mõ, quì lạy quá nhiều, thờ Quan Công, có thêm ngôi Long Đình, dành cho người khuất mặt sắp xuất hiện (ám chỉ vua Hàm Nghi), cổ xuý ngày tận thế sắp cận kề, sắp đổi đời, ma quỷ đã hiện ra đầy đường và vẫn là núi Cấm sắp mở hội Long Hoa”.
Về mặt thờ phượng, đạo Hiếu Nghĩa theo mô hình “trước miễu, sau chùa”. Miễu thờ thần cựu trào, gồm bá quan văn võ. Riêng chùa Phi Lai ở núi Tượng là điện, thờ đấng tối cao là Ngọc Hoàng Huyền khung Cao thượng đế, tượng trưng với tấm vải đỏ, không hình tượng (gọi trần điều). Một bàn thấp hơn dánh cho “tứ đại thần châu”, tức bốn hòn đảo của cõi tiên. Đúng là tu tiên, đạo Lão...
Những điều đó cho thấy, hướng đi và việc làm của Ngô Lợi không thoát khỏi tư tưởng phong kiến và thần quyền, như câu ca dao còn truyền tụng ở vùng Núi Tượng:
Ai về nhắn với áo dà, Sửa sang khăn áo đặng mà chầu vua. Nhưng khách quan mà xét, về mặt đạo, Ngô Lợi động viên được tín đồ cùng nhân dân phát huy tinh thần yêu nước. Về mặt đời, ông cùng với Khả và Ong khởi nghĩa ở Cai Lậy năm 1878, qui tụ được những người từng tham gia kháng Pháp, từ những phong trào như của Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân thiết lập được mối quan hệ với phong trào kháng Pháp của ông hoàng Si-Vatha ở các tỉnh phía Nam nước Campuchia và những người dân tộc Khmer vùng Bảy Núi (Thất Sơn).
Trang web của Thông tấn xã Việt Nam đánh giá:
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là một đặc trưng của văn hóa Nam Bộ, trong quá trình hình thành và phát triển luôn gắn liền với quá trình di dân, khai hoang lập làng, xây dựng căn cứ kháng chiến, hoạt động theo đúng tôn chỉ mục đích “Học Phật tu thân”, “Tứ đại trọng ân”, “Hòa hợp đoàn kết dân tộc”, lấy công tác xã hội từ thiện làm mục tiêu hoạt động.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Wednesday, 2010-11-17, 10:16 AM | Message # 2
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Sơn Nam viết về Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa

SỰ THÀNH HÌNH CỦA HỆ PHÁI

Sau Thủ Khoa huân, phong trào chống Pháp đáng kể là cuộc khởi nghĩa của Ông và Khả ở tỉnh Mỹ Tho vào tháng 5 dương Lịch 1878, bao gồm vùng thuộc Nhiêu, Cai Lậy và Tân Hiệp. người điều khiển tối cao là ông Năm Thiếp, đản sanh tại làng Trà Tần đối diện với cù lao Năm Thôn (Mỹ Tho) vào khoảng 1831, tên thật của ngài là Ngô lợi, còn có tên là Ngô Viện. Người trong đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa gọi tôn là đức Bổn sư. Trong dân gian gọi là Năm Thiếp, vì trước ngày khai đạo, ông đã “bỏ cõi trần bảy ngày đên, còn chúth ơi ấm nơi chớn thủy rồi tỉnh lại”. Và sau này “khi ngài đên núi Tượng (Thất Sơn) cũng thường xãy ra cảnh đi thiếp nhưng thời gian ngắn hơn. Mỗi lần đi thiếp, khi ngài tỉnh dậy là có những bí pháp truyền dạy tín đồ. Ông phát triển chủ thuyết của đức Phật Thầy Tây An trong hoàn cảnh đặc biệt; kháng pháp để đền ơn Tổ quốc (gọi là ơn quốc vương thủy thổ). Nghi thức tu hàn hcó vài nét khác với nghi thức của Bửu Sơn Kỳ Hương hồi thời Phật Thầy Tây an hoặc thời ông Trần Văn Thành ở Bảy Thưa. Lúc ở Mỹ Tho, ông đã liên lạc với vị lãnh tụ này và có đi núi tượng (Thất Sơn) nhiều lần.

Cũng như Đức Phật Thầy Tây An trước kia, tứ Ân Hiếu Nghĩa chú trọng phát triển phật giáo theo hình thức cư sĩ để cho nhiều người gia nhập được, không phân biệt quá rõ rệt giữa giáo phẩm và giáo dân (gọi là Bá Gia). Hình thức truyền giãng vẫn là dùng thể thơ lục bát:

Một trung thờ phật kính thầy,
Hai trung thờ Chúa mình gầy chớ quên
Ba trung phụ mẫu lưỡng toàn
Ấy là ba chữ rõ ràng chẳng sai . .

Ơn đồng bào được giải thích cặn kẽ và nhấn mạnh:

Xin đừng ỷ phú hiếp bần
ỷ mình sang trọng hiếp phần cô đơn.
Thiên sánh thiên số, bớ dân, Sang giàu thì trọng, cơ bần thì khinh. . .

“Ngoài việc tu thân theo đạo Nho để trở nên người quân tử, đức bổn Sư còn khuyên tu Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Nhưng trong bốn ân: ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo và ân đồng bào nhân loại, đức Bổn sư đặc biểu dương và xiển minh ân tổ tiên và ân quốc vương thủy thổ mà ngài lập thành một mối đạo mang danh là HIếu Nghĩa.

Tín đồ của ông Năm Thiếp lúc bầy giờ torng dân gian ẫn được gọi là người theo đạo Lành. Các phần tử tích cực thường thay đổi chỗ ở, nay đây mai đó, danh xưng của họ là thầy vãi. Trước khi có phong trào Thủ Khoa Huân, ở Gò Công, Mỹ tho đã xuất hiện đạo Lành ; năm 1874, thầy thập hoạt động ở vùng Lương Phú, bến Tranh. Đáng chú ý là thầy Thập chịu vô Thiên Chúa giáo nhưng đó là hình thức để che mắt nhà cầm quyền.

Năm 1877, ở vùng Trường đua cũ (Sài gòn) thực dân theo dõi một nhân vật tên là Đặng Văn Hợi, ông này tìm ra mạch nước thiêng, truyền rao cho dân tới múc về mà uống trị bịnh.

Ông Năm Thiếp và các cao đồ của ông giảng truyền rằng thời Mạt Phápđến từ lâu rồi và đã tới lúc chuẩn bị lập đời Thượng ngươn. Người theo Tứ Ân dùng mật hiệu để nhận nhau, đại khái, họ cứ đưa ngón cái của tay mặt lên ngang mặt mà niệm hai tiếng “Mô Phật”. Năm 1877, bịnh thời khí hoành hành, tính đồ tứ Ân phát bùa ngăn bịnh cho dân chúng. Ngày 16-2-1878 dương lịch (nhằm rhằm tháng giêng) ông Năm Thiếp họp những thầy vãi lãnh đạo phong trào ở các tỉnh Nam Kỳ về làng Hòa Khánh (Trà Lọt, Mỹ Tho). Để che mắt nhà cầm quyền, ông gọi đó là cuộc “làm chay”. Số người tham dự có hơn 200. Ông rao là đời Minh Hoàng được thành lập, ai không theo thì bị thú dữ, cọp beo trong rừng ăn thịt. Trong cuộc ọp thứ nhì ngày 28 tháng 3 âm lịch tức là ngày 30-4-1878, ông phong cho Khả làm chánh tưởng, ông là phó tướng để điều khiển cuộc khởi nghĩa nhằm chiếm vùng Mỹ Tho, luôn cả tỉnh lỵ.

Bọn Pháp biết là đã xảy ra nhiều cuộc tụ họp dân chúng với khí giới thô sơ ở vùng Thuộc Nhiêu – Cai Lậy. Đồn Cai Lậy 9d7ợc tăng thêm 30 lính mã tà, 10 lính Pháp và một sĩ quan Pháp. Ngày 2 tháng 5 dương lịch 1878, một cánh quân khởi nghĩa thứ nhì xuất hiện ở làng Cửu Viễn, không xa chợ Mỹ tho. Hai cánh quân này bị giải tán và hai lãnh tụ là Ong và Khả lần lược bị Trần Bá Lộc bắt, thủ đoạn cố hữu của tên Việt gian này là bắt thân nhân của người trong cuộc, hăm dọa hương chức hội tề địa phương để họ điềm chỉ nơi ẩn náo của quân khởi nghĩa.

Viên giám đốc Nội vụ ở Sài Gòn ra lịnh cho các tham biện chủ tỉnh toàn Nam Kỳ truy nã ông Năm Thiếp (công văn ngày 29-5-1878), chánh quyền sẳn sàng xuất tiền đài thọ thêm cho các tỉnh để mướn bọn do thám, đồng thời cũng dành 1.000 quan tiền thưởng cho ai bắt được. Trong công văn này, ghi rõ tướng mạo ông Năm Thiếp: vóc người cao ráo ốm yếu, có ba chòm râu dài.
Bọn tham biện chủ tỉnh tha hồ bắt tín đồ để giam giữ vô điều kiện. Qua tháng 2 dương lịch 1889, tình hình Mỹ tho không được khả quan, tín đồ của ông Năm Thiếp cứ tụ tập bí mật, dân chúng không tin rằng người Pháp tiếp tục cai trị được cõi Nam Kỳ, những người cầm đầu đạo mối thường vắng mặt vào tháng 11 âm lịch để về núi Tượng mà “lãnh phép”. Nhiều người trước kia theo phong trào đã được tha tội vì thiếu bằng cớ những khi xét nhà của họ thì gặp những bằng cấp, nhiều nhất là “lòng phái” của đạo Tứ Ân.

Chủ tỉnh Tân an cho rằng ông Năm Thiếp đang ở Châu Đốc nhưng chủ tỉnh Châu Đốc sai người len lỏi đến núi Tượng tìm mãi mà chẳng thấy gì cả. đến tháng 9 năm 1879 thì chủ tỉnh này bảo là Năm Thiếp đang ở núi Tượng những vừa vắng mặt đi qua địa phận Cao Miên, có lẽ sẽ về.

Màn lưới do thám được siết lại, rốt cộc không thâu được kết quả gì ráo. Chẳng qua là ông Năm thiếp được tín đồ và đồng bào mến mộ, khi đang ở núi Tượng, Châu Đốc thì tín đồ loan tin rằng ông đang ở Mỹ Tho; khi ông ở Tân An thì có tin đồn ông đang ở núi Tượng oặc Sa Đéc, vì vậy bọn Pháp bị đánh lạc hướng. Cuối năm 1879, chủ tỉnh Mỹ Tho lại bão rằng đạo Lành tuyên truyền mạnh trong tỉnh. Ông Năm Thiếp vừa đến phú Kiết là trở lại núi Tượng, tới cuối năm sẽ về, ông thường di chuyển bằng ghe lồng như người buôn bán, ghe có ba người chèo và có hai vệ sĩ. Buồn cười nhứt là hai tên Việt gian từng lập thành tích trong việc đàn áp bà bắt bở Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương, Nguyễn Trung Trực, đã tốn người, tốn của mà không thu nhập được kết quả gì. Nhơn viên do thám đắc lực của đốc phủ Lộc là Hai Phép lãnh trách nhiệm theo dõi ông Năm Thiếp đã đến núi Tượng, nhưng bị cảm hóa rồi theo phe kháng Pháp luôn, không trở về. Đốc phủ Đỗ Hữu Phương cho I Minh hương tên Bửu mua 3.000 xâu chuỗi bồ đề từ Chợ Lớn len lỏi xuống núi Tượng giả vờ như sùng đạo rồi cúng cho bổn đạo những vẫn không biết tung tích ông Năm Thiếp ra sao.

Đến mức chót, các viên chủ tỉnh Tân An, Mỹ tho chỉ còn biết thù vặt, bắt bớ những người trước kia theo Tứ Ân, viên giám đốc Nội vụ phải bực mình, không cho bắt bớ vu vơ nữa vì đó là thủ đoạn tống tiền của những viên chức ở thôn quê hoặc bọn mật thám.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Wednesday, 2010-11-17, 10:19 AM | Message # 3
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Đức Bổn Sư đạo Tứ ân hiếu nghĩa cùng “Bá gia” quyết trấn giữ vùng biên cương, núi xa

Đức Bổn sư Ngô Lợi sinh giờ Ngọ, ngày mùng 5 tháng 5 Tân mão (1831) tại làng Trà Tân (Mỏ Cày, Mỹ Tho). Thuở thiếu thời ông sinh sống ra sao không rõ. Đến năm 1851 người ta thấy ông bắt đầu khuyên “bá gia” tu niệm. Năm 1867 Ngô Lợi bỗng nhiên “bỏ cõi trần bảy ngày đêm, còn chút hơi ấm nơi chớn thuỷ, rồi tỉnh lại” với hành động khác lạ như một người đã rủ sạch lòng trần, chứng đắc đạo quả: ngài truyền dạy tín đồ của mình một số “bí pháp” tu hành. Do thỉnh thoảng ngài vẫn làm như thế nên người đời gọi là “Năm Thiếp” (thứ năm có biệt tài “đi thiep”, tức tự làm như chết rồi sống lại, kể nói nhiều chuyện lạ lùng). Còn người trong đạo thì gọi tôn là Đức Bổn Sư. Hiếu Nghĩa Kinh có đoạn kệ nhắc nói về sự đại ngộ sau lần đi thiếp 7 ngày ấy như sau (đã dịch):

Trở lại năm Đinh mão, đúng ngày ngọ tháng năm
Ta trở mình lìa tục, hôn mê bảy ngày đêm
Bỗng nhiên hồi tỉnh dậy, giải thoát sạch lòng trần
Dạy người theo đạo thiện, giáo truyền khắp muôn dân.

Năm 1870 Đức Bổn Sư chính thức phát phái (như thẻ tín đồ) cho những người quy y theo đạo. Hai năm sau, ngài dẫn “bá gia” đến vùng Thất Sơn để khai phá, trồng tỉa, đồng thời cũng có ý đồ tụ nghĩa chuẩn bị một cuộc nổi dậy đánh đuổi thực dân xâm lược. Tại đây song song với việc “trảm thảo khai sơn” ngài tổ chức thiết dựng xóm làng. Trước hết lập thôn An Định tại núi Tượng năm 1876, (nhưng đến 1881 nhà cầm quyền Pháp mới chịu hợp thức hóa). Năm 1882 lập thôn An Hòa giữa núi Dài và núi Tượng. Đến 1883 lập thôn An Thành. Và dường như sau đó có lập thêm thôn An Lập. Các thôn đều gần kề nhau. Để có chỗ dựa tinh thần, ngài cất lên một số đình, chùa, miễu và dạy đồ chúng tu hành.

Với tôn chỉ học Phật, Đức Bổn Sư không đi sâu những triết lý thâm viễn của Phật giáo mà chỉ chú trọng đến chuyện họa phúc, cứu khổ, cứu nạn nhãn tiền. Còn tu nhân thì chủ yếu kêu gọi mọi người đứng lên cứu quốc, đánh đuổi thực dân xâm lược. Để tránh bị người Pháp dòm ngó, Đức Bổn Sư gọi đạo của ngài là “đạo thờ Ông Bà”, nhưng qua tìm hiểu về sinh hoạt và cách thờ phượng, lý tưởng thì hai tiếng Ông Bà của Tứ Ân Hiếu Nghĩa mang ý nghĩa rất bao quát. Theo đó, bà con trong đạo đều tu tại gia, được tự do để tóc để râu, và lập tại gia đình mình rất nhiều bàn thờ. Chính vì vậy nên nửa trước nhà ở của người tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa được thiết kế hơi khác với nhà của người ngoài đạo: cửa chính ra vào không làm ở giữa mà là một bên. Vị trí các bàn thờ như sau:

Giữa nhà có bàn nhị đẳng (mặt bàn có hai tầng), trên hết thờ Quan Thánh đế quân, không lư hương (?), tầng kế thờ Hội đồng thượng Phật, hiểu là Phật Tổ, Phật Thầy. Dưới chót có một “bàn kinh” (rời), ngoài lư hương ra, hai bên có chuông, mõ, chính giữa để một bộ kinh cúng dường 13 quyển. Vách phía bên phải có một bàn nhỏ thờ Tam giáo hay Tam giáo hoả lầu (Phật, Thánh, Tiên suy cho cùng cũng là một gốc). Bên trái có bàn nhỏ riêng thờ Cửu phẩm liên hoa (có người hiểu là Cửu thiên huyền nữ). Bên dưới bàn nhị đẳng có bàn nhỏ thờ Thập phương. Trong cùng bên phải thờ Nội, ngoại thân thuộc bên chồng, bên trái thờ Nội, ngoại thân thuộc bên vợ. Ngoài cửa thờ Tiền hiền (có người hiểu Thất thập nhị hiền của Phật Tổ?). Hai bên thờ tả, hữu mạng thần. Trước sân có bàn Phật Thiên, chia làm hai tầng, tầng trên thờ Chánh Đức Thiên La Thần, tầng dưới thờ Thổ trạch Long Thần.

Trên bàn Tiền hiền thường có một khay lễ, trong khay có nơi cắm đèn, nhang và hoa, 3 chung nước và một cái dĩa têm trầu cau.

Nếu thờ đúng theo nghi thức của đạo thì nhà người tín đồ cũng như một ngôi chùa, miễu, mỗi lần thắp nhang phải trên 10 cây. Theo sự tìm hiểu của người viết thì nhà của người tín đồ có 8 bàn thờ; nhà của “cư sĩ” có thêm 3 bàn nữa, vi chi 11 bàn; nhà của ông Gánh có 16 bàn, tức thêm 5 bàn ở phía sau vách ngăn giữa nhà, đó là bàn thờ Tổ tức Đức Bổn Sư, 3 bàn thờ Tam giáo, và 1 bàn thờ Cửu thiên huyền nữ gọi tắt là Cửu huyền (?).

Về cúng lạy thì mỗi ngày hai thời, hoặc bốn thời vào các giờ Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu. Mỗi bàn thờ một lư lương, mỗi lư hương ngày thường thắp một cây nhang ngày lễ thì 3 cây. Lạy Phật hai bàn tay úp xuống; lạy ông bà hai bàn tay lật ngữa. Mỗi bàn (Phật Tổ, Phật Thầy, lạy 6 lạy, lạy bàn Ông Bà 4 lạy các bàn khác 3 lạy, xá thì hai bàn tay mở ra chứ không nắm lại, ngón cái bàn tay trái đè ngón cái bàn tay mặt.

Về thức cúng thì nhất định phải có hai món: bánh đúc và xôi xeo.
Về ăn, Đức Bổn Sư không dạy ăn chay, không dạy ăn thịt mà dạy ăn cá, đặc biệt phải cử ăn thịt 12 con giáp. Sau này người ta thấy tín đồ có ăn chay vào các ngày mùng 6, 8, 9, 12, 15, 19, 29, 30 (hoặc mùng 1 nếu tháng thiếu) và những ngày vía. Có người phát nguyện ăn chay 3 tháng trong năm, đó là các tháng 1, 7 và 10. Như vậy ăn chay hay ăn mặn thì tuỳ, không bắt buộc, do đó cũng có nhiều người không ăn chay.

¤

Dưới chiếc áo “thầy vãi” che mắt nhà cầm quyền, Ngô Lợi thường đi “ta bà” rao giảng đạo lý. Ai có bệnh thì ông trị giúp, nơi nào có dịch, ông phát bùa ngăn chặn, nhưng cái chính là ông tìm thêm “đồng chí”, hoặc liên lạc nhau để bí mật tổ chức nổi dậy. Hai việc làm nhưng chỉ một mục đích: chống Pháp!

Thật vậy trong ý hướng đó, dưới sự điều khiển của ông, vào tháng 5/1878 ở vùng Thuộc Nhiêu, Cai Lậy, Tân Hiệp thuộc tỉnh Mỹ Tho đã nổi lên thêm một cuộc khởi nghĩa chống Pháp rầm rộ do “chánh tướng” Ong và “phó tướng” Khả cầm đầu. Nhưng rất tiếc bị thất bại. Cả Ong, Khả và nhiều người khác đã bị Trần Bá Lộc bắt giết. Việc lớn không thành, cơ mưu bại lộ nên liền đó Giám đốc Nha Nội vụ Sài Gòn ra lệnh cho Tham biện ở các tỉnh thuộc Nam Kỳ phải truy nã Năm Thiếp. Bị theo dõi, nhưng nhờ được đồng bào mến mộ, che chở nên tuy bọn Pháp cho người trà trộn vào hàng ngũ, thậm chí sẵn sàng dành ra 1000 quan tiền để thưởng ngay cho người nào bắt được, nhưng ông cứ như người biết tàng hình (người ta đồn tung lên như thế, lại thêm rằng ông cũng có nhiều phép lạ), bọn Pháp vẫn không tài nào tìm gặp được ông. Chúng vô cùng tức tối, và quyết tâm đến mức tên chủ tỉnh Châu Đốc Puech nhiều phen đích thân thanh sát vùng núi Tượng, len lỏi rình rập cả ban đêm, nhưng cũng không hề biết tung tích mặc dù tình báo của y đã cung cấp tin tức, quả quyết rằng hiện ông đang lẫn trốn tại một địa điểm nào đó rất cụ thể.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Wednesday, 2010-11-17, 10:20 AM | Message # 4
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Công cuộc truy nã ông Năm Thiếp cứ im ỉm mãi, khiến bọn Pháp ăn không no ngủ không yên. Đã thế tình hình an ninh vùng biên giới lại càng phức tạp, rối rắm. Tình báo thì cứ được tin dồn dập rằng, ở Nam Kỳ nơi này sắp khởi loạn, nơi kia có hiện tượng bất thường. Trong khi đó phía bên kia biên giới vẫn đã và đang nổi dậy, rất đông người Miên bên này đang chầm hầm hưởng ứng. Đó là những cuộc khởi nghĩa của các ông hoàng Achar Soa (nội địa), Pucambo (vùng biên giới Tây Ninh – có liên kết với Trương Huệ – cậu Hai Quyền, con trai Trương Định), Si-vatha (vùng biên giới Châu Đốc)... Cho nên bọn Pháp rất lo ngại, chúng lùng sục khắp nơi, nhưng chỉ ghi nhận hầu hết người dân chỉ lo làm ăn, tu hành và... hoang mang lo sợ, bởi hơn ai hết họ biết rất rõ rằng, rồi đây thế nào cũng phải có một trận đụng độ lớn xảy ra. Và việc gì đến đã đến...

Khoảng tháng 5 năm 1885, nghĩa quân làng An Định (người Việt và Miên) bất thần nổi dậy, tấn công và chiếm được đồn Phú Thạnh của Pháp ở biên giới. Sau đó, họ đem lính mã tà tới “dẹp loạn” nhưng không tái chiếm được đồn, bèn hung hãn bắn giết, bắt bớ và đốt phá nhà cửa thường dân rồi bỏ về. Đồng bào làng An Định chạy tứ tán. Chúng kêu gọi hồi cư. Thế là dân chúng lục tục trở về nhưng rất lưa thưa chứ không đông đầy tựa “bánh ếch sắp trên sàng” như trước. Họ dựng cất lại nhà cửa, nhưng do không còn lương thực để ăn (đã bị Pháp đốt sạch) nên chỉ mấy ngày sau thì bỏ đi gần hết – tản ra gần Châu Đốc làm thuê kiếm tiền độ nhựt.

Tên chủ tỉnh Châu Đốc nhận xét làng An Định “toàn là dân bất hảo, chống đối sự khai hoá của người Pháp. Họ tu hành cuồng tín, ra vẻ chí thú làm ăn nhưng đó là hình thức mà thôi, gặp cơ hội sẽ làm loạn nữa. Do đó phải có biện pháp cứng rắn hơn”. Hắn nói cũng đúng. Đồng bào tiếp tục nổi dậy. Làng An Định về mặt hành chánh, chính thức bị giải tán, cho sáp nhập qua làng Ba Chúc kế cận. Dù vậy chủ tỉnh Châu Đốc vẫn rất lo ngại, nên đánh điện tín về Sài Gòn, yêu cầu được gặp viên Giám đốc Nha Nội vụ để bàn về một kế hoạch hết sức quan trọng. Đó là kế hoạch đối phó với tín đồ Tứ Ân ở núi Tượng, nơi có ngôi chùa nổi danh toàn cõi Nam Kỳ mà Năm Thiếp đang cư ngụ “uy tín tinh thần của ông hãy còn mạnh. Ông là giáo chủ của tôn giáo mới” và “theo lời đồn đãi của một số nho sĩ già chống đối sự khai hoá của Pháp thì chùa nói trên [Phi Lai] là trung tâm điểm [thuộc thôn An Định, được xem là nơi phát nguyên đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa] để phát khởi một phong trào phục hưng cho dân An Nam” – điện tín đến Sài Gòn ngày 5/2/1887.

Sau đó, được sự thống nhất của Sài Gòn nên Châu Đốc ra tay: Đốt sạch các cơ sở thờ tự của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Dân làng bị tập trung để kiểm soát, lấy lý lịch rồi trục xuất toàn bộ 407 gia đình, gồm 1990 người (nam phụ lão ấu) về nguyên quán 13 tỉnh của hầu khắp Nam Kỳ. Sám giảng:

Tham biện viết giấy trao tay,
Người ở vùng nào đường ấy ra đi.

Từ ấy Năm Thiếp và các tín đồ ruột của ông phải ẩn lánh vô cùng vất vả. Tất nhiên bọn Pháp vẫn quyết liệt truy nã nhưng không sao tìm được.

Sau đó, để ổn định lòng dân, bọn Pháp làm ngơ, bà con dần dần tái thiết lại một số chùa, đình, miếu để có nơi dân làng lễ bái.

Cuộc kháng chiến chống Pháp của “Đức Bổn Sư núi Tượng” tuy không lan ra diện rộng nhưng với tấm lòng yêu nước vô bờ bến, chấp nhận mọi hi sinh gian khổ, thậm chí nhiều phen tắm mình trong biển lửa, biển máu, bị bắt bớ, tù đày..., nói chung là không thành công nhưng không thể không dựng lên một tầm cao và chiều sâu.

Cũng như thế đó, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa phải chịu hàng chục lần đạo nạn và phạm vi khu biệt ở một vài địa phương, chưa lan rộng, nhưng rõ ràng đó là một tôn giáo cứu thế, bản địa, ý thức tinh thần dân tộc của người tín đồ rất cao, rất sâu. Họ đã kiên cường chống giặc, quyết trấn giữ bằng được vùng biên cương, núi xa. Trước giặc, họ không lùi một bước, còn cuộc sống đời thường, họ là mẫu người hiền lương, chơn chất, luôn nêu cao tinh thần trung với nước, hiếu với dân. Nghĩa tình ấy thật rất đáng trân trọng!

Ông Ngô Lợi viên tịch ngày 13/10 năm Canh dần (1890) thọ 59 tuổi. Mộ ông được an táng tại núi Tượng. Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa được các “ông Trò” và “ông Gánh” nối chí xiển dương. Ông Trò là những vị đệ tử thường theo bên Thầy và phát huy ý tưởng của Thầy, còn ông Gánh là gánh vác hai vai Đạo và Đời đồng nhau tức những người được giao trách nhiệm trông nom việc đạo thay Thầy, quản lý khoảng 30 nóc gia có theo đạo. Ông Gánh cũng từ trong hàng ngũ ông Trò mà ra.

Thế hệ ông Trò đã qua, nay chỉ còn những ông Gánh. Giúp việc cho ông Gánh là “cư sĩ” – huynh trưởng. Hiện, quanh núi Tượng có 13 gánh; huyện Tri Tôn có 24 gánh. Tín đồ có khoảng 50.000, riêng huyện Tri Tôn khoảng 22.000 tín đồ). Những người có trách nhiệm trong đạo đều để tóc để râu – một cách giữ gìn cổ tục nước nhà vậy!


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
  • Page 1 of 1
  • 1
Search:

Bình Chọn
Rate my site
Total of answers: 22
Tin Nhắn
200
Site friends
  • Create a free website