Friday, 2024-05-17, 5:08 PM
Welcome Guest

3V CLUB

[ New messages · Members · Forum rules · Search · RSS ]
  • Page 1 of 2
  • 1
  • 2
  • »
Diễn Đàn 3V » DIỄN ĐÀN 3V » TÀI LIỆU THUYẾT MINH 63 TỈNH THÀNH » HÀ NAM (tất cả về Hà Nam)
HÀ NAM
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:00 PM | Message # 1
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Hà Nam

Diện tích: 849 km²

Dân số: 814.900 người (năm 2003)

Tỉnh lỵ: Thị xã Phủ Lý

Các huyện: Duy Tiên, Kim Bảng, Lý Nhân, Thanh Liêm, Bình Lục.

Dân tộc: Việt (Kinh), Tày, Mường, Hoa...

Điều kiện tự nhiên

Hà Nam là tỉnh ở phía nam châu thổ sông Hồng, cửa ngõ phía nam của thủ đô Hà Nội. Phía bắc tỉnh Hà Nam giáp Hưng Yên và Hà Tây, phía đông giáp Thái Bình, phía tây giáp Hoà Bình, phía đông nam và nam giáp Nam Định và Ninh Bình. Địa hình của tỉnh đa dạng bao gồm chủ yếu là vùng đồng bằng chiêm trũng, vùng đồi núi, nửa đồi núi. Tỉnh có hai con sông lớn chảy qua đó là sông Đáy và sông Châu Giang.

Đất đai của tỉnh phần lớn là đất phù sa, độ phì nhiêu cao, thuận tiện cho việc phát triển canh tác cây trồng, đặc biệt là cây lương thực và cây hoa màu.

Khí hậu nhiệt đới, chia làm hai mùa: mùa khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23ºC.

Tiềm năng phát triển kinh tế và du lịch

Tỉnh Hà Nam có nhiều tiềm năng về trồng cây lương thực, cây hoa màu.Hà Nam là địa phương có nền văn hiến lâu đời. Trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, thị xã đã bị san phẳng tới ba lần. Ngày nay, thị xã Phủ Lý là trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế của tỉnh. Tỉnh tuy nhỏ nhưng có khá nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh. như Núi Cấm, Ngũ Động Sơn, chùa Bà Đanh, hang Luồn, động Cấm Khả Phong... Tỉnh cũng có nhiều lễ hội truyền thống trong đó hội vật võ Liễu Đôi đã nổi tiếng cả nước.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:02 PM | Message # 2
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Hà Nam - xưa và nay

Ngày 20/10/1890, tỉnh Hà Nam chính thức được thành lập. Đất đai tỉnh Hà Nam gồm đất phủ Liêm Bình, 17 xã của huyện Vụ Bản, Thượng Nguyên (thuộc tỉnh Nam Định), 2 tổng Mộc Hoàn, Chuyên Nghiệp thuộc huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Nội (cho nhập vào huyện Duy Tiên) và 2 huyện cũ là Duy Tiên, Kim Bảng của phủ Lý Nhân.

Từ khi thành lập đến nay, trải qua 118 năm, địa danh và địa giới hành chính của tỉnh đã có nhiều thay đổi. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tỉnh thuộc liên khu III. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chỉ đạo kháng chiến của hai tỉnh Nam Định và Hà Nam, tháng 5/1953, Trung ương quyết định cắt các huyện phía Bắc tỉnh Nam Định gồm Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc và 7 xã phía Bắc Nghĩa Hưng nhập vào tỉnh Hà Nam; chuyển châu Lạc Thuỷ về tỉnh Hoà Bình. Tháng 4/1956, sau giảm tô và cải cách ruộng đất, 3 huyện Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc và 7 xã của Nghĩa Hưng sát nhập trở lại tỉnh Nam Định. Năm 1956, tỉnh Hà Nam và Nam Định sát nhập thành tỉnh Nam Hà. Đầu năm 1976, Nam Hà sáp nhập với tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Năm 1992, tỉnh Nam Hà và tỉnh Ninh Bình lại chia tách như cũ. Ngày 1/1/1997, tỉnh Hà Nam được tái lập, gồm các huyện Thanh Liêm, Bình Lục, Lý Nhân, Duy Tiên, Kim Bảng và thị xã Phủ Lý.

Tên tỉnh Hà Nam tuy mới có 118 năm, song vùng đất này từ rất sớm đã có những đặc thù, đặc điểm riêng. Với bốn mặt đều có sông bao bọc, dòng sông Đáy chia địa hình Hà Nam làm hai vùng rõ rệt: vùng đồng chiêm trũng và dải đá trầm tích ở phía Tây. Ở vùng đồng bằng có nhiều đồi núi với cảnh quan đẹp: Núi Đọi, núi Điệp ở Duy Tiên; núi An Lão (Nguyệt Hằng Sơn) ở Bình Lục; núi Non, núi Chanh Chè ở Thanh Liêm… Trung tâm tỉnh là nơi hội tụ của 3 con sông: sông Đáy, sông Châu, sông Nhuệ (ngã ba sông). Ở trong dãy núi đá vôi phía Tây có nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp đã đi vào thơ ca: Ngũ động sơn, hang Luồn - ao Dong, đầm Ngũ Nhạc, núi Ngọc, Bát cảnh tiên, dốc Cổng Trời, động Phúc Long, Kẽm Trống, hang Gióng Lở…Trải qua chiều dài lịch sử, cố nhân đã để lại cho Hà Nam nhiều di sản văn hoá vật thể vô cùng quý giá: Trống đồng Ngọc Lũ - dấu ấn thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của nền văn hoá Đông Sơn; cuốn sách đồng Bắc Lý - một trong 4 cuốn sách còn nguyên vẹn nhất, nội dung phong phú nhất của cả nước, tấm bia “Sùng Thiện Diên Linh”, tấm bia “Đại Trị”… Hà Nam có 1.784 di tích trong đó có 65 di tích xếp hạng cấp quốc gia, 39 di tích xếp hạng cấp tỉnh.

Bên cạnh những giá trị văn hoá vật thể, Hà Nam cũng là quê hương của những làng nghề thủ công truyền thống với các làng nghề nổi tiếng như: lụa Nha Xá; mây tre đan Ngọc Động; sừng Mỹ nghệ Đô Hai; thêu ren An Hoà, Hoà Ngãi; rũa cưa Đại Phu - An Đổ; mộc Cao Đà; gốm Đanh Xá, Quyết Thành; trống Đọi Tam…Hà Nam cũng là quê hương của nhiều lễ hội truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc. Toàn tỉnh có 100 lễ hội, trong đó có 5 lễ hội vùng được tổ chức quy mô của lễ hội truyền thống. Các nghi thức tế lễ, rước, trò chơi dân gian, sinh hoạt nghệ thuật dân gian được tổ chức long trọng, sinh động, tăng cường tính cộng đồng, cộng cảm của làng xã như: Lễ hội đền Trần Thương; Lễ hội chùa Đọi; Lễ hội đền Trúc - Ngũ Động Sơn; Lễ hội vật võ Liễu Đôi…

Hà Nam là một trong những cái nôi của nền nghệ thuật truyền thống đang được kế thừa và phát huy như: chiếu chèo làng Ngò, chiếu chèo làng Hoà Ngãi, chiếu chèo làng Thọ Chương (huyện Lý Nhân); chiếu chèo Đồng Hoá (huyện Kim Bảng); chiếu chèo Châu Giang (huyện Duy Tiên); hát tuồng Bạch Thượng (Duy Tiên), An Thái (Bình Lục). Bên cạnh đó Hà Nam còn có vốn dân ca mang đậm những nét riêng như: múa hát dậm Quyển Sơn, Kim Bảng; múa hát Lải Lèn, Lý Nhân; dân ca giao duyên vùng ngã ba sông Móng…

Là vùng đất có bề dầy truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, Hà nam tự hào có Thập đạo tướng quân Lê Hoàn đã có công dẹp loạn 12 sứ quân, xây dựng cơ đồ nhà Đinh, đập tan quân Tống lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là vua Lê Đại Hành. Cuộc đời của ông luôn gắn liền với mảnh đất Liêm Cần, nơi đặt chỉ huy quân đội, nơi luyện quân. Trần Bình Trọng, người con của quê hương Bảo Thái (nay là xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm) mãi lưu danh trong sử sách với câu nói nổi tiếng: “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vưong đất Bắc”. Ông bị giặc giết lúc 26 tuổi, được truy phong Bảo nghĩa vương.

continute....


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:02 PM | Message # 3
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Minh, Hà Nam là một trong những căn cứ quan trọng của nghĩa quân Lam Sơn, tiêu biểu là Tướng quân Vũ Cố (Thanh Thuỷ, Thanh Liêm) đã cùng với Lê Lợi xây dựng căn cứ Đồng Ao đánh giặc… Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phát huy truyền thống đánh giặc của ông cha, Đinh Công Tráng, người quê Nham Tràng, Thanh Liêm; Lê Hữu Cầu, Nhật Tân, Kim Bảng; Đinh Văn Nghiêm (Đề Yêm), Đồng Hoá, Kim Bảng đã đứng lên kêu gọi văn thân, chiêu mộ nghĩa quân, dựng cờ đánh Pháp…Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhân dân Hà Nam luôn đoàn kết một lòng đi theo Đảng đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng quê hương. Ngay từ năm 1930, nông dân Hà Nam đã đứng lên đấu tranh bằng cuộc biểu tình, tuần hành ngày 20/10/1930 tại Bồ Đề (Bình Lục), mở đầu cho các cuộc nổi dậy của nông dân trong tỉnh. Hà Nam tự hào có Nguyễn Hữu Tiến, người vẽ lá cờ Tổ quốc, đã bị địch bắt và bị xử bắn ngày 28-8-1941 cùng các chiến sĩ Nam Kỳ khởi nghĩa là Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Vǎn Tần, Hà Huy Tập...

Trong trường kỳ chống Pháp, nhân dân Hà Nam vừa chiến đấu, vừa tích cực tăng gia sản xuất, không những xây dựng nền kinh tế tự cấp, tự túc để nuôi quân dân kháng chiến lâu dài mà còn đóng góp hàng ngàn tấn lương thực để nuôi quân trên các chiến trường, tiễn đưa hàng vạn con em lên đường nhập ngũ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân dân Hà Nam với tinh thần vì miền Nam ruột thịt, nghe theo tiếng gọi của Đảng, lớp lớp thế hệ thanh niên Hà Nam đã tình nguyện lên đường vào Nam chiến đấu. Hà Nam luôn là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến, đảm bảo “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, nhiều người con của quê hương đã anh dũng hy sinh như: ; 9 cô gái Phù Vân; 12 cô gái Lam Hạ ...

Cùng với bề dầy truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, Hà Nam còn là mảnh đất có truyền thống hiếu học. Kể từ khoa thi đầu tiên (1075) đến khoa thi cuối cùng (1919) toàn tỉnh đã có 53 người đỗ đạt ở 36 khoa thi. Người đỗ cao nhất là Nguyễn Quốc Hiệu (Phú Thứ, Duy Tiên) đạt học vị Thám hoa, người đỗ khoa bảng trẻ nhất là Phan Tế (Duy Tiên) đỗ học vị Tiến sỹ khi mới 19 tuổi, người đỗ ở tuổi cao nhất là Trương Minh Lượng (Duy Tiên) đỗ Tiến sỹ năm 65 tuổi, người đỗ đầu 3 kỳ thi là Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến…Truyền thống hiếu học và tài năng của nhân dân Hà Nam tiếp tục được giữ gìn, phát huy cao độ từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Hà Nam tự hào có Phạm Tất Đắc với tập “Chiêu hồn nước” bất hủ; Nguyễn Thượng Cát với bản lược dịch “Tư bản luận”; Nam Cao - Nhà văn liệt sỹ, người đầu tiên được giải thưởng Hồ Chí Minh vì những cống hiến to lớn đối với sự nghiệp văn học nước nhà. Hà Nam tự hào với tiếng trống Bắc Lý, nơi khởi nguồn của phong trào “Dậy tốt, Học tốt”.

Phát huy truyền thống lịch của cha ông, trong những năm qua, Đảng bộ, quân và dân Hà Nam tích cực thi đua lao động sản xuất, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Đảng bộ quân và dân Hà Nam luôn thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ, đóng góp vào thành công của hai cuộc kháng chiến và trong thời kỳ đổi mới thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với những đóng góp đó, Đảng bộ quân và dân Hà Nam cùng 6/6 huyện, thành phố vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và nhiều danh hiệu cao quý khác. Năm 2008 này, thị xã Phủ Lý vinh dự được đón nhận Huân chương Lao động Hạng ba của Nhà nước trao tặng, được Chính phủ công nhận là thành phố trực thuộc tỉnh.

Sau hơn 10 năm tái lập tỉnh, Đảng bộ, quân và dân Hà Nam luôn đoàn kết một lòng, nỗ lực khắc phục mọi khó khăn, tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế xã hội. Từ sau khi tái lập tỉnh năm 1997 đến nay, kinh tế - xã hội Hà Nam đã có những bước tiến vượt bậc, đạt được nhiều thành tựu quan trọng với tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 9%.

Kinh tế - xã hội Hà Nam đang khởi sắc, cơ chế chính sách đầu tư khá hấp dẫn, sẵn sàng mời gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong 9 tháng đầu năm 2008, tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) ước đạt 2.889,2 tỷ đồng, tăng 14,34% so với 9 tháng năm 2007; Sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tiếp tục phát triển, giá trị sản xuất năm 2008 ước thực hiện 1.767 tỷ đồng, tăng 4,3% so với năm 2007, đạt 100,02% Kế hoạch năm; Giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh 9 tháng ước thực hiện 3.805 tỷ đồng, tăng 26,2% so với cùng kỳ năm 2007, đạt 74,2% Kế hoạch năm; Ước tính giá trị xuất khẩu 9 tháng năm 2008 đạt 96.565,5 ngàn USD, bằng 96,6% Kế hoạch năm, tăng 38,3% so cùng kỳ năm trước. Tỉnh đã giải quyết việc làm cho khoảng 9.500 nghìn người, đạt 70,4% kế hoạch năm; Tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh dự tính đến hết tháng 9 còn 9,1%, giảm 1,54% so với năm 2007… Đến nay, Hà Nam đã có 05 khu công nghiệp, cụm công nghiệp tập trung. Thời gian tới, tỉnh sẽ tập trung làm tốt công tác quy hoạch các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ, phấn đấu đưa Hà Nam trở thành tỉnh công nghiệp trước năm 2020, là đô thị loại I sau năm 2025.

Trên cơ sở những thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức, tiềm năng và triển vọng, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh sẽ tập trung mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo bước đột phá trong phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, du lịch, dịch vụ, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa công nghệ mới vào sản xuất và đời sống, không ngừng chăm lo đời sống tinh thần cho nhân dân. Qua đó góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Nam lần thứ XVII đề ra, xây dựng tỉnh Hà Nam sớm trở thành một tỉnh giầu về kinh tế, vững mạnh về an ninh quốc phòng, có lối sống văn minh, cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X./.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:04 PM | Message # 4
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Hà Nam thời tiền sử và sơ sử
Cách đây 225 triệu năm toàn bộ vùng đất của Hà Nam, Nam Định, Thái Bình và Ninh Bình còn nằm sâu dưới đáy biển. Cuối kỷ Jurat hay đầu kỷ Bạch phấn, một vận động tạo sơn đã tạo nên vùng đá vôi của 3 tỉnh Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình hiện nay. Đa số các núi đá phân bố dọc hữu ngạn sông Đáy, có rất ít ngọn nằm ở tả ngạn.

Khoảng 70 triệu năm trước đây, chế độ biển kết thúc, thay thế là một quá trình bồi tụ để hình thành đồng bằng cổ. Phù sa mới và việc hình thành đồng bằng trên cơ sở tạo nên vùng đất thấp là trầm tích trẻ nhất châu thổ Bắc bộ. Hà Nam là vùng đất được bồi đắp bởi phù sa của sông Hồng, sông Đáy và thu nhận đất đai bị bào mòn từ vùng núi cao trôi xuống. Ngoài những ngọn núi, Hà Nam còn được bao bọc bởi những con sông. Đó là sông Hồng ở phía Đông, sông Đáy ở phía Tây, sông Nhuệ ở phía Bắc, sông Ninh ở phía Nam và nhiều con sông khác chảy trong tỉnh. Chính những điều kiện tự nhiên đã tạo cho vùng đất này các đặc trưng về văn hóa lịch sử của một khu vực giao thoa hay vùng đệm kết nối văn hóa từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam và chính những đặc điểm này đã hình thành nên tính cách của người Hà Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Theo kết quả khảo cổ thì người nguyên thuỷ đã xuất hiện ở Hà Nam trên dưới 1 vạn năm vào buổi đầu thời kỳ đồ đá mới và đồ gốm thuộc nền văn hóa Hoà Bình, văn hóa Bắc Sơn. Cũng có thể do sự bùng nổ dân số từ sơ thời kỳ đại kim khí nên bắt đầu đã có cư dân xuống trồng lúa nước ở vùng chiêm trũng. Họ được xem như những người tiên phong khai thác châu thổ Bắc bộ.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:04 PM | Message # 5
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline

Hà Nam trong thời đại Hùng Vương

Tại Hà Nam tính đến năm 2001 đã phát hiện 30 di tích, di vật thuộc văn hóa Đông Sơn trong tổng số 400 di tích thuộc văn hóa Đông Sơn trên toàn quốc, có những di vật khá tiêu biểu như trống đồng Ngọc Lũ cùng 17 chiếc trống khác, hay như thạp đồng, rìu đồng, giáo đồng, hoặc như mộ thuyền ở Kim Bảng, Duy Tiên. Có thể nói những giá trị văn hóa của nền văn minh này đã hội tụ đủ sức mạnh để tồn tại và nuôi dưỡng trong suốt 1000 năm Bắc thuộc, để đến khi có điều kiện thì nhân dân Hà Nam cùng cả nước vùng lên kiên quyết đánh tan quân xâm lược giành lại nền độc lập cho dân tộc.

Vào thời Hùng Vương, Hà Nam thuộc vùng đất của bộ Giao Chỉ gồm các huyện Duy Tiên, Kim Bảng, Thanh Liêm, Bình Lục và một phần đất huyện Lý Nhân. Cư dân Hà Nam thời kỳ này đã trải qua một quá trình chinh phục, thích ứng và từng bước làm chủ vùng đất trũng lầy. Họ đã cùng với những người Việt cổ khác trên cả nước góp phần xây dựng nền văn minh bản địa đầu tiên của dân tộc - văn minh Văn Lang - Âu Lạc. Cư dân Hà Nam cùng cư dân cả nước từ những vùng hoang vu rậm rạp tiến về xuôi theo triền những con sông để tiến hành khai hoang lập ấp, tạo dựng nơi cư trú. Dần dần họ đã tạo dựng cho mình một cuộc sống ngày càng dễ chịu và một nền văn hóa mang tính bản địa.

Trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Hà Nam có nhiều nữ tướng cầm quân theo Hai Bà. Đó là Nguyệt Nga ở Duy Tiên, Cao Thị Liên ở Thanh Liêm. Hà Nam còn có căn cứ của Lê Chân ở Kim Bảng chống lại quân Đông Hán.

Trong cuộc khởi nghĩa Lý Bí và Triệu Quang Phục, tướng Đinh Lôi ở Thanh Liêm là người tài giỏi giúp Lý Bí đánh giặc Lương lập được nhiều chiến công. Sau chiến thắng (542) Đinh Lôi được Lý Bí cử ra trấn trị miền Đông Bắc. Sau khi Lý Bí mất năm 548, giao lại binh quyền cho Triệu Quang Phục, Đinh Lôi lại theo Triệu Quang Phục tiếp tục chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn. Ông được phong là "Sinh thần Đại Vương".

Trong thời kỳ đầu xây dựng và bảo vệ quốc gia độc lập tự chủ (Khúc, Ngô, Đinh, Tiền Lê) mảnh đất và con người Hà Nam đã tích cực ủng hộ Khúc Thừa Dụ, Dương Đình Nghệ. Sau khi Ngô Quyền mất, thân quyến của Ngô Quyền đã đem 40 người về Thanh Liêm cư trú.

Đinh Bộ Lĩnh dựng cờ khởi nghĩa, ngay cả nhà sư Nguyễn Minh Quang trụ trì tại chùa Bảo Thái (Thanh Liêm) cũng đã tích cực vận động các đệ tử tham gia tụ nghĩa dưới ngọn cờ của ông. Đó còn là Nguyễn Ninh, Nguyễn Tĩnh ở Bình Lục chiêu mộ quân sĩ, lập đồn trại tại quê hương giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn. Đó là Trương Nguyên, một tướng tài của Đinh Bộ Lĩnh được ban quốc tính. Sau khi Đỗ Thích giết chết hai cha con Đinh Tiên Hoàng vào tháng 10/979, năm 980, Lê Hoàn lên ngôi. Ông củng cố quốc phòng xây dựng kinh tế. Ông đã thân sinh đi cày ruộng tịnh điền ở Đọi Sơn (Duy Tiên).

Sử cũ chép "Đinh Hợi, năm thứ 8 (987) mùa xuân, vua bắt đầu cày ruộng tịnh điền ở núi Đọi, được một chĩnh nhỏ vàng, lại cày ở núi Bàn Hải, được một chĩnh bạc nhỏ, vì thế đặc tên là ruộng kim ngân" (Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, H.1972 trang 141), chính từ sự kiện này, Lê Hoàn là ông vua đầu tiên trong lịch sử xuống đồng thâm nhập thực tế, đã mở rộng chính sách trọng nông truyền thống cho nhiều đời sau.

Thời kỳ này nghề thủ công truyền thống ở Hà Nam như nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa tiếp tục phát triển. Năm 985, Lê Hoàn đưa 1 vạn tấm lụa sang cống cho vua Tống… không những phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, vương triều Tiền Lê còn mở mang giao thông phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế và dân sinh.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:06 PM | Message # 6
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Hà Nam dưới các triều đại Lý, Trần, Hồ, Lê

Cuộc dời đô của Lý Thái Tổ năm Canh Tuất (1010) qua đất Hà Nam chắc chắn nhận được sự đóng góp cả vật chất lẫn tinh thần của nhân dân Hà Nam. Bởi lẽ cuộc rời đô đòi hỏi cần nhiều nhân lực, vật lực.

Năm 1069, Lý Thánh Tông hạ chiếu thân chinh đi đánh Chiêm Thành. Đoàn quân khổng lồ 5 vạn người đi qua Phủ Lý Nhân, nhân dân Hà Nam là những người ủng hộ, giúp đỡ rất nhiều cho đội quân của triều đình.

Tại Thi Sơn (Kim Bảng) còn lưu giữ nhiều chuyện kể về cuộc hành quân 1069 và Nguyên soái Lý Thường Kiệt.

Sau khi chiến thắng Chiêm Thành vua Lý Thánh Tông đã đi thuyền qua Lý Nhân. Sách Đại nam nhất thống chí viết: "Vua Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, giết Sạ Đẩu, phu nhân (Mỵ Ê) bị bắt…" và khi qua Lý Nhân, Mỵ Ê đã nhảy xuống sông tự vẫn. Hiện tại đền Mỵ Ê phu nhân ở Lý Nhân.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ nhất, sông Thiên Mạc là nơi đồn trú của vua quan triều Trần. Sông Thiên Mạc là dòng sông ngắn, chia nước của sông Nhuệ đoạn cầu Giẽ, chảy qua Phú Xuyên qua Hoà Mạc, Trác Bút rồi đổ vào sông Hồng. Chặng đường rút lui chiến lược năm 1258 qua nhiều địa phương Hà Nam. Nhân dân Hà Nam ở mọi vùng miền đã tham gia tích cực, tạo điều kiện vật chất để ủng hộ và bảo vệ vua tôi nhà Trần. Kho lương ở Trần Thương xã Nhân Đạo là một minh chứng.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 2 (1285) vua tôi nhà Trần đã rút khỏi Thăng Long theo sông Thiên Mạc về Thiên Trường. Trên đường rút lui, quân ta dựa vào các điểm chốt để mai phục quân địch. Nhiều tấm gương hy sinh cao cả như Trần Bình Trọng vốn dòng dõi Lê Hoàn quê ở Thanh Liêm đã đanh thép trả lời quân thù: "Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc". Đó là Trần Duy Công, Nguyễn Chung Công và Nguyễn Thành Công ở Bình Lục cùng hàng trăm, hàng ngàn người vô danh khác tham gia kháng chiến. Tháng 5/1285 trận đánh đầu tiên trong hệ thống phòng tuyến sông Hồng đã diễn ra trên đất Hà Nam và giành được thắng lợi có ý nghĩa quan trọng củng cố niềm tin chiến thắng của quân dân cả nước. Năm 1287 - 1288 quân Nguyên lại ngông cuồng xâm lược nước ta lần nữa và lần này lại bị đánh tơi bời.

Năm 1400 Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần. Năm 1407 nhà Hồ thất bại trước nhà Minh. Các cuộc khởi nghĩa sau đó của Trần Ngữ và Trần Quý Khoáng tuy có giành được chiến thắng song cũng chỉ kéo dài đến năm 1413. Năm 1416 tại Lũng Nhai, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa. Nhân dân Hà Nam đã tham gia khởi nghĩa với một trái tim nhiệt thành yêu nước. Đó là Vũ Cố ở Thanh Liêm đã dẫn đường cho đại quân của Lê Lợi đánh tan giặc tại Lý Nhân tạo điều kiện thuận lợi cho quân ta tiến công bao vây Đông Đô. Đó là ba chị em Ả Đào dùng tiếng hát mê hoặc giặc Minh tạo điều kiện cho nghĩa quân giết giặc.

Trên mảnh đất Hà Nam còn những dấu tích trên cánh đồng Thành giữa hai xã Liên Túc và Liên Sơn, cách thành Cổ Lộng nơi diễn ra trận đánh thắng quân Minh nổi tiếng không đầy 6km. Năm 1428, Lê Lợi đánh thắng quân Minh lập nên vương triều nhà Lê. Trải qua các đời vua Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông và Thánh Tông, đất nước Đại Việt phát triến cực thịnh. Và thời kỳ này Hà Nam cũng có nhiều người đỗ đại khoa ở các khoa thi kén chọn người hiền tài, mở đầu là Nguyễn Khắc Hiếu và Trần Thuấn Du đỗ Tiến sỹ năm 1429.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:06 PM | Message # 7
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Hà Nam từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XIX

Đây là thời kỳ Đại Việt lâm vào tình trạng khủng hoảng, kinh tế sa sút, đời sống nhân dân cực khổ, các thế lực phong kiến nổi lên giành quyền lực.

Nhà Mạc trị vì vào năm 1527, loạn chiến tranh Nam Bắc, rồi sự phân chia đàng trong đàng ngoài đã dẫn tới cảnh tiêu điều ở nông thôn Hà Nam. Năm 1771, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ cùng nhau dấy binh khởi nghĩa tại Tây Sơn. Ngày 17/12/1788, Tôn Sĩ Nghị chiếm đóng Thăng Long.

Ngày 22/12/1788 Nguyễn Huệ xuất quân ra Thăng Long. Ông chia thành 5 cánh quân tiến đánh. Đoàn quân Tây Sơn cùng nhân dân Hà Nam tiêu diệt cứ điểm Hoàng Anh (Thanh Liêm) đồn Nhật Tảo (Duy Tiên)… ngày nay một số địa danh ở Hà Nam vẫn còn tổ chức kỷ niệm chiến công lẫy lừng của Quang Trung.

Thời kỳ này mặc dù gặp nhiều khó khăn biến động song nghề thủ công cổ truyền vẫn được nhân dân các làng có nghề duy trì, phát triển… một số điểm buôn bán đã hình thành.

Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi mở đầu vương triều Nguyễn, nhưng nền kinh tế của Hà Nam vẫn lâm vào cảnh đình đốn mặc dù buôn bán có phát triển, nhiều thợ giỏi của Hà Nam bị bắt đưa vào Huế phục vụ vua và Hoàng tộc. Về giáo dục, thi cử thì ở Hà Nam từ thế kỷ XVI đến cuối XIX có 42 người đỗ đại khoa như Lê Tung, Nguyễn Khuyến, Bùi Dị, Bạch Đông Ôn…


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:07 PM | Message # 8
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Hà Nam thời cận đại (1873-1945)

Đây là thời kỳ đấu tranh bất khuất của dân tộc và xuất hiện một sự kiện quyết định vận mệnh đất nước. Đó là Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập ngày 3/2/1930. Hà Nam là một tỉnh nhỏ nhưng là một trong 5 tỉnh đông dân nhất Bắc Kỳ và là một trong những tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Kỳ. Đời sống của nhân dân chủ yếu dựa vào trồng lúa, cuối thế kỷ XIX đã xuất hiện một số đồn điền ở Kim Bảng và Thanh Liêm chủ yếu là trồng cây công nghiệp và chăn nuôi gia súc. Nghề khai thác đá cũng đã phát triển. Các nghề làm thuốc xì gà, làm đồ sừng, quạt giấy, ấp vịt… cũng bắt đầu phát triển. Ở Phủ Lý nhiều cửa hàng cửa hiệu mọc lên. Hệ thống giao thông cũng hình thành các tuyến đường bộ, đường thuỷ. Thời kỳ này đã có 1,3% dân số của tỉnh đi học.

Ngày 20/10/1890, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh Hà Nam, trên cơ sở phủ Lý Nhân được mở rộng thêm. Lúc này tỉnh Hà Nam mới gồm toàn bộ phủ Lý Nhân cũ, hai tổng Mộc Hoàn và Chuyên Nghiệp thuộc huyện Phú Xuyên, phủ Thường Tín tỉnh Hà Nội sáp nhập vào huyện Duy Tiên và 17 xã thuộc huyện Vụ Bản, phủ Nghĩa Hưng, huyện Thượng Nguyên, phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định sáp nhập vào phủ Lý Nhân. Như vậy Hà Nam khi mới thành lập là địa bàn của phủ Lý Nhân mở rộng về phía Hà Nội và Nam Định. Lúc này Hà Nam có 5 huyện là Kim Bảng, Thanh Liêm, Lý Nhân, Bình Lục và Duy Tiên.

Ngày 24/10/1908, Hà Nam có thêm châu Lạc Thuỷ chuyển từ Hoà Bình sáp nhập vào. Tháng 5/1953, Trung ương quyết định cắt các huyện phía Bắc tỉnh Nam Định gồm Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc và 7 xã phía Bắc Nghĩa Hưng nhập vào tỉnh Hà Nam, chuyển châu Lạc Thủy về tỉnh Hoà Bình. Tháng 4/1956, sau giảm tô và cải cách ruộng đất, 3 huyện Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc và 7 xã của Nghĩa Hưng sáp nhập trở lại Nam Định. Năm 1965, Hà Nam và Nam Định sáp nhập thành tỉnh Nam Hà. Đầu 1976, Nam Hà sáp nhập với Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Năm 1992, tỉnh Hà Nam Ninh chia tách thành Nam Hà và Ninh Bình. Năm 1997 Nam Hà chia tách thành Hà Nam và Nam Định. Lúc này Hà Nam gồm 5 huyện là Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Lý Nhân, Bình Lục và thị xã Phủ Lý. Toàn tỉnh gồm 114 xã, phường, thị trấn.

Phong trào đấu tranh chống Pháp ở Hà Nam nổi lên Đinh Công Tráng, linh hồn của khởi nghĩa Ba Đình ở Thanh Hóa, khởi nghĩa Đề Yên nhưng đều thất bại.
Thời kỳ này Hà Nam đã xuất hiện giai cấp công nhân. Năm 1930, số lượng công nhân của Hà Nam là 1.400 người, chủ yếu ở đồn điền, công trường đá và ga Phủ Lý.

Năm 1927, Trần Tử Yến là sinh viên cao đẳng thương mại Đông Dương là Hội viên của Việt Nam Cách mạng thanh niên về Lũng Xuyên (Duy Tiên) dạy học, tại đây ông cùng Nguyễn Hữu Tiến, Vũ Hưng Uyển thành lập chi hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại đình Lũng Xuyên.

Tháng 10/1929 đồng chí Lê Công Thanh được cử về Hà Nam xây dựng các chi bộ Đảng. Tháng 10/1930 tỉnh uỷ lâm thời được thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ phong trào cách mạng của Hà Nam bước những bước tiến mới. Giai đoạn 1930 - 1939 phải kể đến tiếng trống của nông dân Bồ Đề (Bình Lục), rồi phong trào tiếp thu sách báo cách mạng rầm rộ. Nguyễn Thượng Cát lược dịch Tư bản luận in thành 3 tập. Nông dân chống phụ thu lạm bổ, chống địa chủ cường hào…

Thời kỳ 1939-1945 là thời kỳ đỉnh cao dẫn đến khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc và ở Hà Nam. Ở Hà Nội trong 5 ngày từ 20-24/8/1945 khởi nghĩa nổ ra ở tất cả các huyện thị và giành thắng lợi giòn giã.

Cuộc đấu tranh bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng của nhân dân Hà Nam cùng cả nước diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm thành công không boa lâu thì giặc Pháp trở lại xâm lược nước ta. Nhân dân Hà Nam cùng quân dân cả nước xây dựng làng chiến đấu, củng cố hậu phương, đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp quân và dân Hà Nam đã đánh hơn 10.000 trận lớn nhỏ, diệt hơn 40.000 tên địch.

Nhân dân Hà Nam còn tích cực tăng gia sản xuất xây dựng nền kinh tế tự túc, tự cấp để nuôi quân kháng chiến và góp phần cùng cả nước làm nên Điện Biên lịch sử. 9 năm kháng chiến chống Pháp quân và dân Hà Nam đã làm nên những thắng lợi hết sức vẻ vang, góp phần vào thắng lợi chung của cả nước, đưa lịch sử nước ta sang một thời kỳ mới: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà.
Ngày 3/7/1954, Hà Nam hoàn toàn được giải phóng. Ngày 13/7/1954 Thường vụ Tỉnh uỷ họp quyết định một số nhiệm vụ và giải pháp trước mắt nhằm ổn định tình hình, nhân dân Hà Nam bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, kinh tế được khôi phục, cuộc sống của nhân dân từng bước ổn định sau những năm chiến tranh gian khổ, quốc phòng an ninh được củng cố và tăng cường, trật tự trị an xã hội được giữ vững.

10 năm xây dựng và phát triển kinh tế (1954- 1964) đã tạo dựng một xã hội đổi mới toàn diện thì 5-8-1964 Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Thị xã Phủ Lý là địa bàn huỷ diệt bởi bom Mỹ. Nhân dân Hà Nam với tinh thần "vừa sản xuất vừa chiến đấu" quyết bám trụ kiên cường và chiến thắng vẻ vang. Thắng cuộc chiến tranh phá hoại, thắng lợi trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, tích cực chi viện nhân lực vật liệu cho chiến trường miền Nam.

Rồi Mỹ lại tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2 với cường độ ác liệt hơn lần thứ nhất. Thị xã Phủ Lý lại gồng mình hứng chịu những trận bom Mỹ từ tháng 4 đến tháng 10/1972 Mỹ đã đánh vào Hà Nam tới 633 trận với hơn 1.300 máy bay các loại. Trong 2 cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ quân và dân Hà Nam đã chiến đấu hơn 500 trận bắn rơi tại chỗ 13 máy bay Mỹ. Cùng với việc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ Hà Nam còn tích cực chi viện cho tiền tuyến lớn: hơn 60.000 thanh niên nhập ngũ, hơn 3.000 thanh niên xung xong cùng hàng ngàn tấn lương thực thực phẩm chi viện cho chiến trường.

Ngày 30/4/1975 đất nước giải phóng, nhân dân Hà Nam lại đoàn kết, phấn đấu vươn lên khắc phục khó khăn cùng cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:08 PM | Message # 9
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Quần thể di tích danh thắng Đọi Sơn

Núi Đọi - sông Châu - biểu tượng thiên nhiên vượt trội, tiêu biểu của tỉnh Hà Nam, cũng như tháp Sùng Diện Thiên Linh xây dựng thời Lý dưới triều Lý Nhân Tông đã và đang lưu dấu trong sử sách, từ lâu xa gần biết tiếng.

Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, xã Đọi Sơn thuộc tổng Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, lúc đó có 3 thôn Đọi Nhất, Đọi Nhì, Đọi Tam, về sau ba thôn Trung Tín, Đọi Lĩnh, Đọi Trung được cắt về cho xã Đọi Sơn.

Núi Đọi cùng với núi Đệp là hai ngọn núi đất đột khởi giữa đồng bằng cùng với núi An Lão (Quế sơn) ở xã An Lão, Bình Lục được tạo thành bởi vận động kiến tạo cách ngày nay khoảng 250 triệu năm. Ba ngọn núi, 3 ở phía bắc tỉnh và một ở phía nam tỉnh cùng với sông Châu, sông Ninh (có người nhầm là sông Đào). Ghi một dấu ấn sơn thuỷ riêng của Hà Nam. Nếu chỉ chọn một biểu tượng, tất nhiên chỉ một điển hình là núi Đọi - sông Châu, nếu cần thêm biểu tượng phụ nữa thì có thể kể núi Quế - sông Ninh, Cấm Sơn - Sông Đáy.

Thời Lý chùa mang tên là Long Đội Sơn (hàm rồng), sau vào thời Hậu Lê đổi thành Đọi Sơn. Núi nằm ở giữa xã, cao khoảng 400m, chu vi khoảng 2500m. Quanh chân núi có chín cái giếng tự nhiên, dân gian gọi là chín mắt rồng. Từ trên đỉnh núi phóng tầm mắt ra bốn phía phong cảnh thật nên thơ. Cánh đồng lúa, bãi ngô, ruộng khoai mượt mà, tươi xanh, xa xa dòng Châu Giang quanh co lượn khúc như dải lụa uốn éo chảy xuyên giữa.

Thuyết phong thuỷ nói rằng nơi đây phát nghiệp vương bá:

Đầu gối núi Đọi

Chân dọi Tuần Vường

Phát tích đế Vương

Lưu truyền vạn đại

Xung quanh chân núi đã phát hiện được nhiều mộ cuốn vòm kiểu Hán, đầu người chết quay vào núi. Đợt khai quật mộ thuyền ở xã Yên Bắc các nhà khảo cổ lại một lần chứng kiến đầu các ngôi mộ cũng nằm hướng núi Đọi. Có thể nhận định từ xa xưa, ít ra cũng vào thế kỷ I trước công nguyên tín ngưỡng dân gian đã coi Đọi Sơn là trái “núi Thiêng”.

Sông Châu, chảy qua xã, con đường nước nối sông Hồng với sông Đáy với các bến đò giao thương khá nhộn nhịp, thời gian còn lưu lại địa danh: chợ Dâu, gò bến…Con đường thiên lý xưa từng có một nhánh chạy qua bên Câu Tử vào đất huyện Duy Tiên qua xã Đọi Sơn để lên kinh thành Thăng Long. Kết quả khảo sát năm 2004 của Bảo tàng tỉnh Hà Nam phối hợp với các nhà nghiên cứu Trung ương, bước đầu nhận định: tháng 7 năm 1010 Lý Thái Tổ dời đô từ thành Hoa Lư về Đại La theo lộ trình đường thuỷ là chính: kinh đô Hoa Lư - sông Hoàng Long - sông Đáy - sông Châu. Đoàn thuyền Ngự đã qua đoạn sông Châu trên đất xã Đọi Sơn ngày nay ra cửa Lỗ Hà để vào sông Hồng rồi ngược lên Thăng Long.

Đọi Sơn - một vùng nông trang trù phú. Sông Châu chảy qua phía Đông xã, trước đây cung cấp lượng phù sa dồi dào làm mầu mỡ cho đất đai. Bãi dâu ven sông Châu quanh năm tươi tốt, nghề trồng dâu nuôi tằm được phát triển từ lâu trong vùng ở Tiên Phong, Mộc Nam…Mưu thuận gió hoà, cây cối tươi tốt ở đất này tôn nổi trái núi thiêng, sông nước trữ tình từng gắn bó với nhiều tao nhân mặc khách thăm thú, đề thơ vịnh cảnh như: Đàm Cửu Chỉ (thời Lý), Nguyễn Phi Khanh, Lê Thánh Tông (Thời Hậu Lê), Bùi Văn Dị, Nguyễn Khuyến, Vũ Duy Vĩ (thời Nguyễn).

Khách lên thăm chùa Đọi sẽ được thưởng thức hương vị thơm chát đậm đà của chè xanh núi Đọi.

Lần theo lịch sử, những di tích đầu tiên ở núi Đọi là khu mộ táng cổ có niên đại trước sau công nguyên ở khu vực ven Đầm Vực, khu Ao Ấu và gò con Lợn. Từ khu di chỉ đến chân núi chỉ khoảng 1km. Trong 11 ngôi mộ có ba ngôi thuộc loại quan tài hình thuyền, hai ngôi mộ đất kè đá, bốn ngôi mộ dát giường. Các ngôi mộ cũng quay đầu vào núi. Hiện vật chôn theo người chết được tìm thấy trong năm ngôi mộ chủ yếu là đồng hồ, đáng chú ý là con dao gặt lúa. Qua phân tích di cốt và di vật cho thấy người cổ Đọi Sơn mang những nét của chủng tộc Anh Đô Nê Diêng điển hình và họ đã sống vào thời kỳ xã hội bước đầu có sự phân hoá giàu nghèo, nghề canh tác lúa nước đã rất phát triển.

Cũng ở núi Đọi các nhà khảo cổ còn phát hiện trống đồng Đông Sơn thuộc loại Heger IV có niên đại thế kỷ I trước công nguyên (loại hình duy nhất được biết ở Hà Nam) cùng một số đồ đồng Đông Sơn không nằm trong mộ, trong đó có chiếc rìu đồng lưỡi hình tròn, gót tròn.

Sử cũ chép lại: Mùa xuân năm 987 vua Lê Đại Hành về Đọi Sơn cày ruộng tịnh điền được một chĩnh vàng và một chĩnh bạc gọi là ruộng Kim Ngân. Như vậy mảnh đất này lần đầu tiên mở ra một tục lệ đẹp mà Lê Hoàn là người khởi xướng, các triều đại từ Lý đến Nguyễn noi theo…Thời gian đã hơn 1000 năm nhưng các địa danh ghi dấu sự kiện này vẫn còn đậm nét như: Nhà Hiến, dinh Trong, dinh Ngoài, tàu ngựa liên tiếp đến nhà vua và quan quân khi ở đây.

Nhà Lý đã sớm chú ý đến ngọn núi án ngữ ở mặt nam kinh thành Thăng Long, cũng lại mang ý nghĩa phong phú trấn yểm. Vì thế khoảng thời gian những năm Long Thuỵ Thái Bình (1054-1058) triều vua Lý Thánh Tông, tể tướng Dương Đạo Gia đã cho xây dựng ngôi chùa trên núi Đọi. Thiền sư Đàm Cửu Chỉ thế hệ thứ 7 của dòng Thiền Quang Bích nổi tiến trong tông phái Phật Giáo đã về đây trụ trì. Tên chùa Diên Linh và núi Long Đọi đã có từ thời đó.

Nhưng Đọi Sơn chỉ thực sự nổi tiếng kể từ khi vua Lý Nhân Tông cho xây dựng ngôi chùa và cây tháp Sùng Thiện Diên Linh năm Hội Tường Đại Khánh thứ 9 (1118), khởi công vào tháng 5 đến chùa Thiên Phù Duệ Vũ thứ 3 (1121) thì hoàn thành. Tháng 3 năm Nhâm Dần (1122)nhà vua mở hội khánh thành chùa Tháp.

Toàn bộ công trình kiến trúc quý báu đó đã bị quân Minh tàn bạo sang xâm lược nước ta phá huỷ. May mắn còn sót lại tấm bia Sùng Thiện Diên Linh và 6 pho tượng Kim Cương, tượng thần Kinaras. Trải qua các triều Hậu Lê, Mạc, Nguyễn có khôi phục lại chùa. Lần tu bổ lớn nhất vào thời Nguyễn, quy mô chùa trên 100 gian, lớn nhỏ thiết kế nội, ngoại quốc. Chùa Đọi thời Lý xếp hạng là “Đại danh lam” kiêm hành cung, thời Pháp từng được liệt vào hạng các cổ tích danh thắng để bảo vệ.

Tháng 3 năm 1947 chùa Đọi bị chiến tranh phá huỷ. Sau này hoà bình lập lại ở phía Bắc, chính quyền và nhân dân đã tích cực tiến hành tu bổ, lần lớn nhất vào năm 1958 đã hoàn tất những công trình chính tại đây. Năm 1992 chùa Đọi được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia. Từ đây công tác tu bổ, tôn tạo di tích ngày càng được quan tâm, từng bước khôi phục các hạng mục. Đặc biệt năm 2002 một dự án tu bổ, tôn tạo lớp quần thể di tích danh thắng Đọi Sơn với vốn đầu tư từ Trung ương trên 10 tỷ đồng. Bước đầu tiên đặt cơ sở cho việc xây dựng dự án là tiến hành khai quật khảo cổ học để tìm lại dấu tích của tháp Sùng Thiện Diên Linh và bình đồ kiến trúc thời Lý. Đó cũng là sự mong đợi từ lâu của các nhà nghiên cứu nay mới được thực hiện.

Cuộc khai quật do bảo tàng lịch sử Việt Nam chủ trì với sự tham gia đóng góp ý kiến của các giáo sư, tiến sỹ có uy tín thu được kết quả khả quan. Trong hố khai quật nằm giữa Hậu Cung của chùa và nhà hậu đã tìm thấy nền móng, các vật liệu kiến trúc cùng nhiều hiện vật thời Lý như tiêu bản trang trí, đồ gốm, đồ sành, kim khí. Đặc biệt có một số di vật quý có giá trị lịch sử và nghệ thuật cao.

Sau khi hoàn thành khai quật công việc tu bổ được tiến hành khẩn trương theo thiết kế kỹ thuật được thẩm định chu đáo.

Dự án tu bổ tôn tạo hoàn thành quần thể di tích danh thắng có một diện mạo mới với các công trình được xây dựng mới hoặc trùng tu: nhà khách, bãi để xe, cổng chùa, đường lên, toà tam bảo, phủ mẫu, đền Cổ Bồng, nhà tổ, nhà ở của tăng ni, mạng lưới cung cấp điện nước…Điều cần nhấn mạnh là công tác tu bổ, tôn tạo đã tuân thủ nghiêm túc các tiêu chí, nguyên tắc khoa học từ khi lập dự án đến quá trình thi công.

Còn phải kể thêm những di tích khác của quần thể nàỳ. Đó là việc phát hiện hai ngôi mộ cổ thờ Hậu Lê nằm ở rìa phía bắc Đầm Vực, phía đông Ao Ấu, cách núi Đọi khoảng 300m về phía nam. Hai ngôi mộ có niên đại Cảnh Hưng (1740-1786) triều vua Lê Hiển Tông giúp chúng ta hiểu thêm về phong tục mai táng và sự phân hoá giàu nghèo thời đó. Cũng là lần đầu tiên chúng ta phát hiện Văn từ huyện Duy Tiên ở trên núi về phía tây bắc cách ngôi mộ chùa khoảng 500m. Văn từ có quy mô khá lớn nhưng bị thực dân Pháp phá huỷ lấy vật liệu về xây bốt Điệp. Nay chỉ còn lại 6 bia đá, trong đó có 3 bia còn đọc được, thống kê các đỗ đạt của huyện từ thời Hậu Lê đến Nguyễn, cung cấp nguồn tư liệu rất có giá trị, trong đó có nhiều vị khoa bảng các cuốn “Đăng Khoa Lục” trước đây bỏ sót.

Lễ hội chùa Đọi hàng năm mở từ 12/3-21/3 âm lịch, chính hội vào ngày 21 là một lễ hội lớn thu hút rất đông du khách xa gần đến dự và vãn cảnh. Lễ hội với đám rước kiệu từ chân núi lên chùa nhằm tưởng nhớ Lý Nhân Tông và bà Ỷ Lan, người có công xây dựng mở mang ngôi chùa sau đó là lễ dâng hương, tế nam quan, tế nữ quan tạ ơn trời Phật. Các trò hội có chơi cờ người, đấu vật, hát đối…và thi đấu thể thao. Tuy nhiên, lễ hội chùa Đọi mang tính chất Phật giáo nên việc tổ chức cần dày công hơn, cần đầu tư công sức nghiên cứu nghi lễ, trò vè cổ truyền đã từng mai một. Nên chăng về lâu dài đào hồ, dựng thuỷ tình mời đội rối nước về trình diễn để phục hiện một bộ môn nghệ thuật độc đáo đã được mô tả trên bia Sùng Thiện Diên Linh ở chính nơi tạc dựng tấm bia này.

Quần thể di tích - danh thắng Đọi Sơn ngày một đậm lên giá trị lịch sử , văn hoá và du lịch. Văn hoá vật thể đã được tu bổ tôn tạo. Văn hoá phi vật thể từng bước được làm phong phú. Đọi Sơn có trở thành điểm nhấn, dấu soi trên bản đồ du lịch Hà Nam như một sức hút không gì cưỡng được của khách du lịch hay không thì còn nhiều việc cần làm.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:11 PM | Message # 10
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Quần thể danh thắng Bát Cảnh Sơn.

Từ thị xã Phủ Lý, theo quốc lộ 22 đi 13km là đến quần thể danh thắng Bát cảnh sơn (hoặc có thể đi từ Đồng Văn theo quốc lộ 60). Dãy Bát Cảnh Sơn đứng bên tả ngạn sông Đáy, dựa lưng vào vòng cung Nam Công (Kim Bảng - Hà Nam và Tuyết Sơn, Hương Tích - Hà Tây), tạo thành thế núi hình sông kỳ thú.

Xưa kia, ở Bát Cảnh Sơn có 8 ngôi chùa và một ngôi miếu thờ thổ đại thần linh được bài trí xây dựng theo thuyết bát quái ngũ hành. Ngày nay, một số cảnh quan đã bị hư hại nhưng hàng năm khách vãn cảnh chùa Hương và khách du lịch thập phương vẫn về thăm với một số lượng khá đông. Quần thể Bát cảnh hiện còn là:

Đền Tiên Ông được xây dựng vào đời vua Trần Nhân Tông trên lưng chừng núi Tượng Lĩnh. Từ km 13 quốc lộ 22, theo đường đá thoai thoải tới phía bắc chân núi Tượng Lĩnh, qua 5 gian nhà khách, 3 gian nhà tổ, du khách đi 108 bậc đá lên đền. Hiện đền y còn lưu giữ được nhiều thần phả, sắc phong và nhiều đồ thờ tự quý hiếm như hoành phi, đại tự, câu đối, bát hương bằng đá, bằng đồng.

Đền Tiên Ông thờ Nam thiên đại thành hoàng Thánh tổ Thiên vương Bồ Tát - Người đã lập ngôi chùa dưới chân núi động Tam Giáo để thờ Phật và thờ tổ tiên cha mẹ, gọi là chùa Tam Giáo. Các pho tượng được thờ ở nơi rất linh thiêng, trải bao lần đền bị chiến tranh giặc giã phá hủy, pho tượng đã nhiều phen bị mang đi nhưng không ai đụng tới được. Nhiều vị vua, chúa như Lê Thái Tổ, Lê Dụ Tông, Trịnh Doanh, Trịnh Tùng, Trịnh Sâm, Mạc Phúc Hải đã tới thăm đền. Tương truyền, Lê Quý Đôn, Nguyễn Huy Oánh là con cầu tự của ngài.

Chùa Tam Giáo: hay còn gọi là chùa Ông. Từ đền Tiên Ông, men theo sườn núi khoảng 1km là đền chùa Tam Giáo, Chùa Tam Giáo xưa kia có hàng trăm gian với hàng trăm pho tượng Phật uy nghi tráng lệ. Chùa được xây dựng dưới chân núi, ở đây có một suối nước chảy từ lòng núi ra. Trên đường từ đền Tiên Ông đến chùa Tam Giáo trước đây có rất nhiều hang động đẹp, đến nay do biến động của thiên nhiên, do sự khai thác của con người, nhiều hang đã bị phá hủy.

Chùa Tam Giao

Không chỉ có thế núi song thu hút lòng người mà Tượng Lĩnh còn được coi là nơi phát tích truyện dân gian Trầu Cau, một câu chuyện lien quan đến tập tục ăn trầu của người Việt. Nơi đây hiện tại vẫn còn địa danh suối Cau trong dãy núi đá vôi (nay gọi là suốt Tân Lang) và chợ Trầu (này là chợ Giầu).

Với cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, với những dấu tích xưa còn lại, quần thể Bát Cảnh Sơn nếu được khai thác đúng hướng chắc chắn sẽ trở thành một điểm du lịch sinh thái - văn hoá hấp dẫn trên đất Kim Bảng, Hà Nam.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:12 PM | Message # 11
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Danh Thắng Đền Trúc - Ngũ Động Sơn

Khu danh thắng đền Trúc - Ngũ Động Sơn thuộc thôn Quyển Sơn, xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng, cách thị xã Phủ Lý hơn 7km theo quốc lộ 21. Đền Trúc nằm ven bờ sông Đáy, dưới chân núi Thi Sơn nên thơ,chung quanh đền là khu rừng trúc có tuổi đời hàng trăm năm. Đền thờ vị anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt khi đi chinh phục giặc phương Nam đã dừng chân nơi đây. Sau khi đại thắng trở về ông lại dừng chân trên núi ăn mừng chiến thắng.

Di tích đền Trúc có 32 sắc phong của các triều đại phong kiến. Ngày 20-1-1994, Nhà nước đã công nhận đền Trúc và Ngũ Động Sơn là di tích lịch sử văn hóa. Cạnh đền Trúc là núi Cấm (hay núi Cuốn Sơn) rộng khoảng 10ha. Trong lòng núi là Ngũ Động Sơn gồm năm động liên hoàn ăn sâu vào trong lòng núi. Lối vào động ở trên cao, nhìn ra mặt sông Đáy. Lối ra nằm ở bên kia vách núi, do vậy không khí trong động rất thoáng mát. Cảnh trí ở đây rất đặc biệt: lúc bình minh ánh sáng rực rỡ rọi vào phản chiếu những sắc màu lung linh trên vách động; buổi trưa ánh nắng lọt qua những kẽ lá trước cửa động tạo thành màu xanh nhạt và buổi chiều là màu tím huyền ảo bởi ánh hoàng hôn. Từ động này, một ngách nhỏ sẽ dẫn du khách đến các động tiếp theo. Điều kỳ lạ là thạch nhũ ở các động này rất khác nhau về cách tạo hình, tạo dáng: có cái mọc từ vách động, trần động rủ xuống, có cái lại nhô lên từ mặt đất. Màu sắc nhũ, độ xốp, độ bóng của các nhũ đá cũng rất khác nhau. Những nhũ đá ẩn sâu trong bóng tối khi có ánh sáng rọi vào do hơi nước phản chiếu ngời lên long lanh như châu ngọc...

Đến Ngũ Động Sơn du khách sẽ được chiêm ngưỡng muôn hình kỳ lạ của nhũ đá và nghe thấy những bản hòa tấu của gió, của đá trong một sân khấu thiên nhiên đầy huyền ảo.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:13 PM | Message # 12
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Chùa Bà Đanh

Chùa Bà Đanh có tên chữ là Bảo Sơn tự, tọa lạc tại thôn Đanh Xá xã Ngọc Sơn huyện Kim Bảng. Cũng như các ngôi chùa khác, chùa Bà Đanh thờ Phật, song ở chùa Bà Đanh ngoài tượng Bồ Tát còn có tượng của Thái Thượng Lão Quân, tượng Nam Tào, Bắc Đẩu và các tượng của tín ngưỡng Tứ Phủ, một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Có tượng của hệ thống Tứ Phủ vì chùa thờ Tứ Pháp. Sự tích Tứ Pháp với các bà mẹ Mây(Pháp Vân), Mưa (Pháp Vũ), Sấm (Pháp Lôi), Chớp (Pháp Điện) như là sự hỗn dung giữa Phật giáo với tín ngưỡng dân gian bản địa đã được chép trong Truyện Man Nương của Lĩnh Nam chính quái (Trần Thế Pháp, thế kỷ XIV, Vũ Quỳnh - Kiều Phú, 1492).

Câu chuyện về gốc tổ Tứ Pháp được hình thành từ mẹ Phật Man Nương đã lan truyền khắp vùng đồng bằng Bắc bộ và cũng được lưu hành ở đây. Người dân Kim Bảng tin rằng, từ khi thờ Tứ Pháp, vùng Bắc Ninh được mưa thuận gió hoà, phong đăng hoà cốc, mùa màng bội thu. Do vậy, họ bèn họp nhau lên xứ bắc để xin chân nhang về thờ. Các làng Vân Lâm, Đặng Xá, Vân Châu, Bầu thôn, Bài Lễ... đã xin chân nhang, tạc tượng Tứ Pháp để thờ, từ đó, tục thờ Tứ Pháp lan truyền ở các xã vùng ven sông Đáy trên đất Hà Nam.

Theo người xưa kể lại thì dân làng Đanh cũng đang có ý định xin chân nhang ở Bắc Ninh về thờ thì xảy ra một câu chuyện lạ. Là từ trước ở vùng này luôn gặp mưa to, gió lớn, mất mùa đói kém diễn ra liên miên. Cho đến một hôm, một cụ già cao tuổi trong làng nằm mộng thấy một người con gái trẻ trung, xinh đẹp, đoan trang có khuôn mặt phúc hậu hiện ra nói rằng: Ta được thần cho về đây để chăm nom và chỉ khu rừng đầu làng làm nơi dựng chùa

Ngôi chùa ban đầu được xây dựng tranh tre nứa lá đơn sơ, đến năm Vĩnh Trị, đời Lê Hy Tông, khu rừng mới được mở mang quang đãng để xây chùa lại cho khang trang. Khu vực này cấm người dân làm nhà ở nên cảnh chùa càng thêm trang nghiêm, vắng vẻ. Ngôi chùa được xây dựng ít lâu thì có một cây mít cổ thụ ở quanh chùa bỗng dưng bị gió to quật đổ. Dân làng đã đẵn lấy gỗ để tìm thợ về tạc tượng.

Bỗng nhiên có một khách thập phương tìm đến chùa nói rằng mình làm nghề tạc tượng và được báo mộng đến đây. Người khách tả hình dáng và dung nhan người con gái đã báo mộng thì thấy giống hệt vị thần đã báo mộng cho cụ già trong làng. Năm ấy gặp mùa mưa lũ, nước sông dâng cao, tạc tượng gần xong thì dưới bến nước trước chùa có vật lạ, nửa nổi, nửa chìm, không trôi theo dòng nước, đẩy ra mấy lần lại thấy trôi trở lại. Thấy chuyện lạ, dân làng vớt lên xem thì hoá ra đó là một cái ngai bằng gỗ bèn rước ngay vào chùa. Thật lạ lùng, pho tượng tạc xong thì đặt vừa khít vào ngai. Từ đó trong vùng mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, tiếng đồn Thánh Bà Bảo Sơn linh ứng lan truyền khắp nơi, khách thập phương về lễ rất đông. Những người làm nghề sông nước xuôi ngược qua đoạn sông này gặp mùa lũ đều lên chùa thắp hương cầu mong yên ổn.

Ngôi chùa ngày nay đã qua nhiều lần tu sửa. Chùa quay mặt ra hướng nam mạn sông Đáy. Phía ngoài cùng, giáp với đường đi và gần bờ sông là cổng tam quan của chùa. . Ngày thường, khách ra vào lễ chủ yếu đi bằng cửa bên , chỉ khi nào nhà chùa có đại lễ thì cửa chính ở giữa mới được mở.

Chùa Bà Đanh là một hệ thống tổng thể bao gồm nhiều công trình với gần 40 gian nhà. Theo nhân dân địa phương cho biết thì các công trình còn lại đều được xây dựng từ thế kỷ XIX trở lại đây. Trong nhà thượng đường của chùa Bà Đanh, có nhiều tượng thờ như tượng Tam thế, tượng Ngọc Hoàng và thái thượng Lão Quân, tượng Bà Chúa Đanh. Có thể coi pho tượng Bà Đanh là một trung tâm của chùa. Tượng được tạc theo tư thế toạ thiền trên chiếc ngai đen bóng (chứ không phải là toà sen), với khuôn mặt đẹp, hiền từ, đầy nữ tính, gần gũi và thân thiết, chứ không có dáng vẻ siêu thoát, thần bí như các tượng Phật khác. Sự hài hoà giữa pho tượng và chiếc ngai tạo nên vẻ hấp dẫn của nghệ thuật điêu khắc chùa Bà Đanh.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:15 PM | Message # 13
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Long Đọi Sơn - Ngôi chùa cổ thời Lý.

Chùa nằm trên núi Đọi Sơn thuộc xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, Hà Nam, cách Phủ Lý khoảng 8 km về phía Bắc. Chùa Đọi được xây dựng vào năm 1054 và được trùng tu năm 1118-1121. Đây là ngôi chùa cổ có nhiều nét văn hoá nghệ thuật kiến trúc tinh xảo, mang đậm dấu ấn qua các thời kỳ lịch sử. Hàng năm vào ngày 21/3 âm lịch chùa Đọi Sơn mở hội. Với vị trí địa lý thuận lợi, phong cảnh thiên nhiên đẹp, nơi đây sẽ là một điểm du lịch khá hấp dẫn.

Chùa Long Đọi Sơn còn có tên chữ là Diên Linh tự do vua Lý Thánh Tông và Vương phi Ỷ Lan chủ trì xây dựng từ năm 1054. Đến đời Lý Nhân Tông, nhà vua này tiếp tục xây dựng phát triển và xây tháp Sùng Thiện Diên Linh từ năm 1118 đến năm 1121.

Sau ba trăm năm đứng vững thì đến đầu thế kỷ XV, khi giặc Minh xâm lược nước ta, chùa và tháp đã bị phá hủy hoàn toàn. Riêng bia vì không phá nổi, chúng đã lật đổ xuống bên cạnh núi, ngôi chùa trở nên hoan phế hoàn toàn. Mãi đến năm Tự Đức thứ 13 (1860) nghỉa là 170 năm sau khi giặc Minh tàn phá nhân dân trong vùng mới cho sửa sang lại thượng điện, tiền đường, gác chuông, nhà tổ...Đến năm 1864, chùa lại tiếp tục sửa hành lang, đúc tượng Di Lặc, đúc khánh đồng và đúc khánh đá do sư tổ đời thứ 5 là Thích Chiếu Trường chủ trì xây dựng hoàn chỉnh 125 gian, từ đó trở thành trường Bắc Kỳ Phật giáo. Ngôi chùa lúc này được dựng theo kiểu nội công ngoại quốc. Tại tiền đường, thượng điện tượng Phật rất nhiều. Hai bên chùa là 18 gian hành lang thờ thập bát La Hán.

Các di vật của chùa Long Đọi Sơn còn giữ được như tấm bia Sùng Thiện Diên Linh. Bia được dựng ngay cổng chính, trước tòa tam bảo . Bia cao 2,88m, rộng 1,4m đặt trên đế đá chạm rồng, hình chạm khắc và hoa văn trang trí trên bia mang đậm phong cách thời Lý. 6 pho tượng Kim Cương trong 8 pho có từ ngày xưa và bốn pho tượng đầu người mình chim là những hiện vật rất quý báu đối với việc nghiên cứu văn hoá nước ta cách đây gần một thiên niên kỷ

Những pho tượng kim cương ấy có pho bị mất đầu có pho bị sứt gẫy đều được đắp lại bằng xi măng. Các pho tượng Kim Cương ở chùa Đọi có kích thước xấp xỉ nhau, cao bằng người thực, khoảng 1,6m đứng chống gươm trước bụng. Tượng được tạc bằng đá khối, phục trang theo lối võ quan. Lá chắn che trước ngực, áo giáp ngoài được trang trí tỉ mỉ bằng hình hoa cúc, hình xoắn. Trên toàn thân áo còn rải rác những bông hoa nhỏ nhiều cánh. Cán gươm được trang trí hình ho cúc dây. Tượng được tạc nổi một phần theo kiểu phù điêu về phía đằng trước, phía sau lưng lẫn luôn vào khối đá. Tượng đứng thẳng, hai chân hơi dõng theo thế đứng vững chãi của người lính gác, hay tay khuỳnh chống gươm trước bụng, đầu đội mũ trùm tai, mặt tròn trặn, nhẹ nhõm.

Tượng đầu người mình chim mang hình tượng nghệ thuật trong thần thoại Ấn Độ, gọi là tượng chim thần Ki-na-ri. Tượng được tạc bằng đá ráp, cao 40cm, tạc một hình người nửa dưới là chim, chân và cánh thể hiện rất rõ, chân có móng, đuôi nhiều lông cao vút. Hình tượng người rất thực. Trên đầu tượng, tóc tết thành hình cầu, vắt ngang trán là một vành khăn rủ xuống ngang vai. Trên hai cánh chim là những đường cong khắc chìm vòng quanh vành ngoài, bên trong có những đường xoáy trôn ốc được cách điệu theo hình hoa lá chạm nổi. Thu hút nhất ở tượng là bộ mặt. Đây là bột mặt trầm tư, đôi mày thanh tú và dài, cặp mắt hơi xếch, đuôi mắt dài hơn, quặp xuống, làm môi khép lại thoáng như có nụ cười. Mũi dọc thẳng, cao. Bộ tóc phía trên đầu được thắt bằng một dải điểm hoa, tạo thành búi trên đỉnh đầu. Đây là những mô típ trang trí của thế kỷ XI-XII.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:16 PM | Message # 14
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Đình Vị Hạ

Đình Vị Hạ ở thôn Vị Hạ, xã Trung Lương, huyện Bình Lục, Hà Nam. Đình làng Vị Hạ thờ bốn vị thành hoàng: Lãng Vương cư sĩ, Thiên Cương Địch Cát tôn thần, đặc biệt là Đông Hải Nguyễn Phục Đại Vương và Đương Chu Đại Vương, một vị là tướng thời Đinh – người có công lao to lớn giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước, còn Nguyễn Phục là vị tướng tài thời Lê. Đình Vị Hạ cũng là nơi diễn ra nhiều hoạt động cách mạng thời chống Pháp, chống Mỹ.

Đình Vị Hạ có nhiều mảng chạm khắc có tính nghệ thuật cao thể hiện ở sự phong phú, đa dạng của đề tài, cùng phong cách thể hiện độc đáo. Ngoài những mô típ phổ biến thường gặp ở nhiều di tích như "Tứ linh", "Tứ quý", nghê chầu, họa chanh, chữ thọ, những đồ thờ tự, câu đối, đại tự… ở ngôi đình này còn có một số mảng chạm khắc độc đáo.

Ở đầu gian dưới xà nách gian giữa tòa tiền đường có mảng chạm khắc rồng, ly mớm nhau, rồng và sư tử nô đùa, rồng đưa chân lên vuốt râu. Trên xà nách và con rường diễn tả cảnh rồng mẹ tay cầm quả trứng, một chú rồng con đang từ quả trứng chui ra, đầu ngẩng cao mắt to tròn nhìn mẹ. Trên bức chạm ở con rường gian giữa tòa tiền đường, có cảnh hai con ly đang lấy chân cạy môi và nghịch răng rồng. Trên con rường và mê cốn gian giữa còn có cảnh người đóng kho, đang trèo cây bắn súng, người thì nắm đuôi con thú lôi lại. Trên con rường gian hồi phía tây có cảnh người cầm đao thiến thú. Con thú to lớn bị buộc chân sau và gìm chân trước, đành chịu đau đớn, bất lực. Sang giang hồi phía đông ta lại được chiêm ngưỡng cảnh con thú đang ngoạm nửa thân con cá. Đặc biệt tại đây, trên bức chạm ở mang mê cốn, nghệ nhân dân gian đã sáng tạo một đề tài rất lạ. Chính giữa bức chạm là hổ phù, mây tản, lá hoả. Bên phải hổ phù chạm cảnh người đóng khố đang cưỡi trên lưng thú. Bên trái là cảnh người phụ nữ tay trái đang ghì con nhỏ vào lòng cho bú, còn tay kia như đang vắt sữa. Con vừa mải mê bú, vừa giơ chân trước giữa bầu sữa mẹ.

Rời tòa tiền đường, ta bước vào tòa đệ nhị và bị cuốn hút ngay bởi nghệ thuật chạm khắc ở bức thuận cửa cấm: cảnh lưỡng long chầu nguyện trên mê thượng, phía dưới câu đầu tạo song tiện trong khung chữ nhật. Hai bên là hai bản chạm nhấn các chấm tròn, biểu tượng các vì sao của phương vị bát quái "Hà đồ", "Lạc thư". Theo các già làng thì Tam Nguyên Yên Đồ Nguyễn Khuyến đã gợi ý cho dân làng đưa vào đình, hàm nghĩa trấn trạch mong dân yên, vật thịnh.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:17 PM | Message # 15
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Đình và chùa Châu

Đình và chùa Châu nằm ở thị trấn Kiện Khê, huyện Thanh Liêm, Hà Nam. Từ thị xã Phủ Lý đi về phía Ninh Bình, theo quốc lộ 1A độ 2km, rẽ phải theo đường qua cầu Đọ về Châu Sơn 4km là đến di tích.

Đình thôn Châu thờ Điện súy Tướng quân Phạm Ngũ Lão, một danh tướng đời Trần, một dũng tướng gần 30 năm phò các triều Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông đều hết lòng và lập nhiều kỳ công để giữ gìn độc lập cho dân tộc.

Thần tích đình Châu kể lại như sau: Phạm Ngũ Lão là người làng Phù Ủng huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương. Ông là người có chí lớn luôn suy nghĩ về đất nước. Trong một lần Trần Hưng Đạo, từ Vạn An về kinh, quân lính đi trước dẹp đường, ông mải suy nghĩ đến nỗi giáo đâm vào đùi mà không hay biết. Thấy chuyện lạ, Trần Hưng Đạo đến gần hỏi chuyện. Biết ông có chí khí lại tinh thông văn võ, Trần Hưng Đạo sung ông vào quân đội, tiến cử ông và còn gả con gái nuôi cho ông.

Phạm Ngũ Lão là một tướng tài của nhà Trần, ông có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên–Mông, có sáng kiến dùng gậy đâm vào chân voi, phá tan đại binh của quân Ai Lao, rất có công trong các trận đánh Chiêm Thành. Một lần trên đường đi đánh Chiêm Thành, khi hành quân qua sông Hát trên đất Kiện Khê, ông gặp gỡ và đem lòng yêu một cô gái trẻ con nhà thuyền chài và cưới cô làm vợ. Người vợ trẻ quen sông nước này đã giúp ông rất nhiều trong việc quân và được ông hết lòng yêu quý.

Khi Phạm Ngũ Lão mất, ông được hưởng ân điển quốc tang, bãi chầu 5 ngày, những nơi thờ ông được xây dựng rất uy nghiêm, to lớn. Đến thời vua Minh Mệnh năm thứ 6 (1823), ông còn được phụng thờ vào các đền thờ của vua Trần như Hưng Đạo Đại Vương. Tại thôn Châu, thị trấn Kiện Khê, có một ngôi đình thờ ông rất lớn, bên cạnh đó, lại có đền nhỏ sát chân núi thờ ông cùng với Thủy Tinh phu nhân, người vợ đất Kiện Khê của ông.

Địa bàn Kiện Khê có các ngọn núi ven sông cùng các vùng đất cao cũng như thung lũng thấp trũng rất thuận lợi trong việc lập quân doanh phòng ngự, làm nơi trú quân hoặc lập kho tàng. Đặc biệt ở khu miếu sau núi Chùa còn thấy một số mạnh gốm cổ thời Trần và những mảnh gạch, ngói ở sâu dưới mặt đất hàng mét, cùng với truyền thuyết về đồn binh thời Trần đã minh chứng bề dày lịch sử của vùng đất Thiên Kiện ở thế kỷ XIII.

Đình thôn Châu nằm quay mặt ra sông Đáy. Ngoài cùng là hệ thống ngũ môn. Công trình này làm theo kiểu chồng diêm ba tầng, mái cong. Cách một khoảng sân rộng là công trình chính được kiến trúc theo kiểu chữ tam, tiền đường 5 gian, tòa đệ nhị 5 gian và cung chính tẩm 3 gian. Tổng số có 13 gian, lợp ngói nam có bờ bảng kìm nóc, đồng trụ hài hòa, trang trí công phu. Đình thôn Châu là một ngôi đình lớn, dài 18m, rộng 10,70m, sử dụng một khối lượng gỗ lim rất lớn.

Cũng như các ngôi đình chùa khác, đình thôn Châu có tòa tiền đường to lớn, được gia công nghệ thuật nhiều hơn cả. Tòa tiền đường của ngôi đình này đã được tu sửa nhiều lần, lần gần đây nhất là vào niên hiệu thứ 11 (1899). Tuy đã qua nhiều lần tu sửa, nhưng người thợ ở đây đã có ý thức bảo tồn vốn cổ dân tộc, nên còn giữ được một số mảng chạm khắc và dồn vào vì giáp phía bắc cũng như phía nam của ngôi đình. Ở vì phía bắc trên các con rường đều đục chạm lá lật cách điệu, vân ám, lá hỏa cùng một số hình ảnh ly mẹ, ly con đỡ những hàng mành mới. Hình ảnh rồng mẹ quyến luyến rồng con (mẫu long giáo tử), rồng, ly âu yếm nhau, ly cắn chân rồng được cài xen các đám mây trông rất sinh động. Những mảng chạm khắc trên đây cùng với một số mảng rải rác ở vì treo phía nam đình là sản phẩm thế kỷ 17, 18 rất có giá trị nghệ thuật.

Ngoài ra trên các vì khác, đặc biệt là hai vì gian giữa với các đề tài tứ linh, long chầu, theo các kiểu dáng khác nhau như quy ẩn dưới ao sen thật khéo léo. Nghệ nhân dân gian đã diễn tả một cách tính thẩm mỹ những đôi phượng múa, những tốp ly nghịch ngợm, vô tư chạy nhảy, luồn sau ngó trước hồn nhiên. Các mảng chạm khóm trúc hóa long, cảnh cúc hóa long rất tài nghệ, cảnh tùng hạc (cây tùng con hạc), cúc điệp (bướm vờn trên hoa cúc) cũng được thể hiện kỳ công.

Trên bẩy tiền ở gian giữa cung, nhiều đề tài được chạm khắc: cảnh rồng bay trong mây, quy ẩn hiện dưới ao sen, cảnh cá hóa rồng, vân ám. Bốn đầu dư đỡ câu đầu hai chân ôm bám vào bông hoa sen như đẩy thân mình ra xa, gánh đỡ cho câu đầu thêm phần vững chắc. Đầu dư được người thợ chạm đục cân bong rất cân đối, hài hòa.

Đình thôn Châu là công trình to lớn tốn hàng trăm khối gỗ lim. Với nhiều bàn tay, khối óc tài giỏi, khéo léo họ đã tạo được bộ khung to, lớn đục chạm được nhiều mảng điêu khắc gỗ rất thành công.

Đình thôn Châu cũng có nhiều đồ thờ có giá trị nghệ thuật cao, biểu hiện của nghệ thuật sơn then độc đáo truyền thống của dân tộc. Hai cỗ ngai bầy từ thời Hậu Lê bầy tại chính tẩm là loại đồ thờ cỡ lớn, cao 1,4m được tạo dáng độc đáo. Tay ngai chạm long chầu khỏe khoắn, sinh động. Sáu trụ đỡ tay ngai với họa tiết rồng leo và đường chỉ, đường viền sắp xếp hợp lý đã tạo nên sự hài hòa, chắc khoẻ mà vẫn nhẹ nhàng thanh thoát. Bộ ngai được bố trí nhiều lớp trang trí như băng cảnh hoa sen dẹo, băng lá sòi kép… Những băng trang trí trên được tạo thành những khuôn đục thông suốt hai bên theo các đề tài rồng chầu, rồng bay trong vân ám, cài thêm những đao lá hoa, những bông cúc. Dưới hệ có bốn chân tạo kiểu chân quỳ dạ cá làm cho ngai vừa đẹp vừa chắc, dù đặt ngai tại chỗ hay đặt trên kiệu rước trong ngày hội cũng vàng vững khó nghiêng đổ.

Chiếc hương án mang phong cách nghệ thuật đời Nguyễn, cao 1,8x1,8x0,9m là nghệ thuật tạo dáng và điêu khắc thời Nguyễn. Tứ riềm thành mặt án thư với cảnh rồng mặt nguyệt, hai bên là những cánh hoa sen rất tự nhiên, đến hương án được thu nhỏ lại và trang trí bằng hoa chanh đục rất tài nghệ. Hàng trăm bông hoa với từng cánh hoa, nhị hoa đều đặn, sinh động với một trình độ nghệ thuật cách điệu cao. Thân án thư cũng được phân thành nhiều khuôn, nhiều mảng đục chạm cảnh rồng chầu, phượng đang cánh, hổ phù, hoa lá hóa rồng, rồng cuốn thủy rất kỳ công.

Bộ bát biểu đình thôn Châu được thể hiện rất kỳ công với trình độ đục chạm cao. Trên biểu, rùi đồng, phủ việt được bố cục lớp lớp hoa lá, cùng với đề tài tứ linh và các hình ảnh bầu rượu, thanh kiếm, cung đàn, sáo trúc, hòm sách, phong thư, lẵng quả đan xen có dải lụa, hoa lá khiến đồ tế tự tưởng chừng đơn điệu, cứng nhắc mà lại trữ tình thơ mộng.

Kiệu bát cống đình thôn Châu dài 4m, đòn dọc, đòn ngang và các đòn thờ nhỏ để khiêng được tạo dáng như những con rồng oai nghiêm. Trên các tay đòn còn điểm các phù điêu phượng múa, ly chầu, hổ phù rất sinh động. Sập và bành kiệu bố cục trang trí nhiều đề tài tứ linh và hoa lá mang tính nghệ thuật cao. Những đồ thờ có giá trị nghệ thuật kể trên, đều được sơn son thiếp vàng. Đây cũng là một nghề sơn then độc đáo truyền thống của dân tộc.

Chùa thôn Châu có tên là Châu Sơn Tự (ngôi chùa trên núi Châu) hoặc Long Sơn Tự (chùa núi rồng). Chùa nằm sâu vào vách đá, ngay bên cạnh cửa hang của động Phúc Long trên núi Chùa. Chùa được xây dựng từ lâu đời, nằm sâu trong vách đá, mái bằng đá nên người ta cho rằng chùa nằm trong miệng con rồng. Theo văn bia Chính Hòa thứ 11 (1690) đục ngay vào vách đá thì đây là bia công đức ghi việc Pháp Bản thiền sư cùng dân thôn bốn giáp tu sửa tượng pháp và hoạch định lại ruộng đất tam bảo. Điều này chứng tỏ chùa được xây dựng từ khá sớm nhưng chủ yếu dựa vào hình dáng thiên tạo. Hiện nay chùa có 3 tòa, làm theo kiểu tiền chữ nhất, hậu chữ đinh, tổng số có 10 gian xây cuốn. Ngoài cùng là gác chuông 3 gian, làm kiểu chồng diêm mái cong, ngói ống, cột đồng trụ và bờ bảng theo phong cách cổ truyền.

Chùa quay hướng nam, phía tây giáp 3 gian đền thờ Phạm Ngũ Lão, phía đông có 5 gian nhà tổ, tiếp đến là nhà phủ, nhà khách, nhà bếp. Đằng trước có 2 tòa phủ đứng biệt lập thờ Thuỷ Tinh phu nhân và Bạch Hoa công chúa, gồm 5 gian. Như vậy, cả khu vực chùa gồm 30 gian lớn nhỏ. Phía trước chùa có hồ và sân rộng, tiếp đó là đường chính đạo ra cổng. Trong sân chùa có nhiều cây trái lưu niên, kết hợp với cỏ cây, núi hang tạo thành cảnh quan u tịnh. Chùa Châu có nhiều tượng không thật lớn nhưng đẹp như tượng Tam Thế, tượng A Di Đà, tượng Di Lặc, tượng Tuyết Sơn, tượng Kim Cương. Ngoài ra, ở đây còn có một số đồ thờ bằng đá như bát hương mâm bồng, bình hương được làm công phu, dáng dấp và hoa văn thể hiện trình độ tay nghề cao và óc sáng tạo đa dạng.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
Diễn Đàn 3V » DIỄN ĐÀN 3V » TÀI LIỆU THUYẾT MINH 63 TỈNH THÀNH » HÀ NAM (tất cả về Hà Nam)
  • Page 1 of 2
  • 1
  • 2
  • »
Search:

Bình Chọn
Rate my site
Total of answers: 22
Tin Nhắn
200
Site friends
  • Create a free website