Friday, 2024-05-17, 4:47 PM
Welcome Guest

3V CLUB

[ New messages · Members · Forum rules · Search · RSS ]
  • Page 2 of 2
  • «
  • 1
  • 2
Diễn Đàn 3V » DIỄN ĐÀN 3V » TÀI LIỆU THUYẾT MINH 63 TỈNH THÀNH » HÀ NAM (tất cả về Hà Nam)
HÀ NAM
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:18 PM | Message # 16
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Đình An Hòa

Đình An Hòa ở xã Thanh Hòa, huyện Thanh Liêm, Hà Nam. Từ thị xã Phủ Lý đi 3km tới dốc Đọ, rẽ tay trái 2km vào đường liên xã, đến thôn An Hòa rẽ phải 300m là đến di tích.
Cổng đình An Hòa

Đình An Hòa thờ hoàng tử Linh Lang và phò mã Kiều Đức Mậu thời Lý. Tương truyền trên đường đi đánh giặc phương nam, Linh Lang đã dừng lại vùng An Hòa để chiêu mộ binh sĩ. Trong số trai trái tình nguyện đi theo, Kiều Đức Mậu được phong làm tướng. Theo người dân địa phương, khu đất hình con rùa ở đây chính là nơi mà trước đây hoàng tử Linh Lang đã đóng quân, lập đồn và huấn luyện quân sĩ. Vì vậy, khi hoàng tử Linh Lang mất, dân đã chọn nơi đây để lập đền thờ. Vị thần được thờ cùng Linh Lang là Kiều Đức Mậu. Ông là người ở vùng núi phía tây huyện Thanh Liêm. Sau khi cùng Linh Lang đánh thắng giặc phương nam, ông được vua Lý Thái Tông chọn làm phò mã. Bởi mến cảnh vùng này nên ông cho lập cung ở đây, lại cung cấp tiền của để chiêu dân lập ấp tại vùng này. Do vậy, nhân dân ở đây vẫn thờ ông làm ông tổ có công lập nên làng xã. Tại đây còn có riêng một ban thờ các tổ lập làng xây dựng quê hương.

Đình An Hòa được xây dựng trên khu đất rộng, mặt trước đình có hồ rộng, hệ thống cột đồng trụ, tường bao. Tòa tiền đường là một công trình mái cong, 4 mái trải rộng nhưng do những trang trí ở hệ thống dao góc nên vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát. Mái được lợp ngói mũi hài, nhà được làm theo lối chồng rường bẩy kẻ. Bộ khung công trình được làm theo lối tứ trụ, có 8 cột cái và cột quan. Các cột cái được làm theo lối búp đòng, chân cột được đặt trên tảng đá vuông xanh có chạm nổi gương tròn để đỡ chân cột. Hệ thống bẩy có bẩy tiền, bẩy hậu và 12 bẩy phụ. Hệ thống đòn bẩy hòa nhập với kẻ góc thành một tổng thể tự nhiên thể hiện kỹ thuật lành nghề của nghệ nhân dân gian.

Đình An Hòa được thiết kế theo kiểu mái cong, chỉ có 4 vì nên hệ thống cột là bộ đỡ quan trọng nhất của khung nhà. Ngoài 8 cột cái được làm theo kiểu phổ biến ở đình là kiểu cột búp đòng chân cột đặt trên đá tảng đế vuông, trên mặt đế chạm nổi gương tròn để đỡ chân cột có hệ thống cột quân có đường kính 0,3m, rất hài Hòa với cột cái cũng được chọn gỗ để làm. Vì vậy đã qua 400 năm mà vẫn bền vững, vẫn nổi vẻ đẹp kiểu dáng, đến các đường vân của gỗ. Hệ thống câu đầu của đình cũng rất lớn, dài tới 4,5m là kiểu má chai, giữa to hai đầu nhỏ dần. Dạ câu đầu tạo gờ chỉ, lá sồi trang trí đẹp mắt. Câu đầu còn được đặt trên hệ thống đầu dư rất cầu kỳ. Mẫu đầu dư là một đầu rồng được chạm kênh bong đã thể hiện đường nét nhấn tỉa khá phóng khoáng. Mỗi đầu dư một vẻ nhưng không hề dập khuôn. Điều đặc biệt là phía sau của đầu dư vừa lá phía sau của đầu cột cũng được đục chạm tạo thân hoặc đuôi rồng, chứng tỏ yêu cầu thẩm mỹ của công trình này được đặt ra rất cao.

Hệ thống bẩy ở đây gồm có bẩy tiền, bẩy hậu và 12 bẩy phụ ở góc dao và mái trái. Các bẩy nào cũng được tạo dáng có kích cỡ khác nhau, đặc điểm cao thấp khác nhau để đỡ cho mái cong dần về hai phía với độ uốn lượn đều đặn cả bốn mái. Cũng như các công trình kiến trúc cổ khác, phần chạm khắc được ưu tiên cho hàng bẩy tiền và quan trọng hơn là những bẩy ở gian chính giữa công trình. Những chiếc bẩy ở đây được chạm khắc trong nhiều đề tài như long chầu, long vân uốn lượn sinh động. Đan xen các đề tài còn có lá lật, lá hảo và các lớp chỉ lồng, chỉ kép dùng để trang trí dạ và thành bẩy, khiến những khúc gỗ to, cứng giữ chức năng đỡ bộ máy nặng nề lại trở thành mềm mại, hấp dẫn.

Kẻ góc của đình An Hòa cũng Hòa nhập với tổng thể công trình, nhất là với hệ thống đòn bẩy. Nhưng việc thi công bốn kẻ góc mà dân gian thường gọi là xà cổ ngỗng, để vừa đảm bảo mỹ thuật vừa uốn lượn tự thân con rồng là điều rất khó. Người thợ phải chắp nối gỗ theo kỹ thuật lành nghề mới đạt được cả hai yêu cầu kỹ thuật và mỹ thuật. Trên lớp vì được tạo lớp lớp con rường, trụ non đấu trụ. Để giải quyết chức năng giữ hoành mái, các cấu kiện này còn được làm theo kiểu dáng ống tơ, cho hàng con rường nhẹ nhõm. Hai đầu lại tạo dáng một con thú ghé vai đỡ hoành, hoặc điểm các hoạ tiết hoa lá, lá hoa nên tuy cả mảng là gỗ xếp lên nhau mà vẫn không có cảm giác nặng nề.

Điều đáng quan tâm về nghệ thuật điêu khắc là các mảng chạm trên con rường, hà diệp, xà nách, xà đùi ở hai gian trái đình. Các nghệ nhân đã thể hiện các đề tài tứ linh: cảnh rồng mớm, rồng âu yếm vờn nhau, cảnh trúc hoá, sen hoá, cảnh đầu người mình chim cũng thể hiện rất sinh động, cảnh rồng mẹ vui với rồng con, ly to lấy chân gìm giữ ly con, ly cắn tai rồng, ly cắn đuôi… Cảnh nào cũng là những đường nét chạm hóm hỉnh, bao hàm nhiều ý nghĩa sâu xa.

Những đề tài nổi trội mà ít nơi có được, đó là mảng chạm khắc dân gian khiêm tốn nép mình ở một số cấu kiện trong đình An Hòa. Trên cảnh ván bưng có cảnh hai người ôm đôi gà chọi trên tay, mà đôi gà vẫn chõ mỏ vào nhau như đang dở cuộc đấu. Giữa khung cảnh người và vật còn có hoạ tiết bông hoa làm tăng thêm ý nghĩa trò chơi gà chọi, một môn chơi truyền thống lành mạnh trong những ngày xuân. Trên xà nách gian giữa, ngoài các cảnh tứ linh, các băng lá sòi sen hóa nghệ thuật còn có cảnh tiên cưỡi rồng, cảnh con hổ nhe răng rất dữ tợn, cảnh chim và sóc đang tranh ăn, cảnh ly leo trên cây ăn quả, cảnh ly đeo chuỗi nhạc ngựa và người đang giành giữ nhau, người lấy chân đạp giữ chân ly. Trên trụ non người thợ còn chạm cảnh hai con thú đang ôm giữ bông hoa sen cách điệu. Tại hàng xà nách phía trong ngoài các đề tài tứ linh sinh động, hoa lá, lá hỏa, vân ám còn nổi lên cảnh người đóng khố leo cây, một tay hái quả, một tay giữ cành. Đây là cảnh hái dừa. Những con người được cách điệu rất to lớn so với cây cối xung quanh.
Trên hạ điệp còn chạm nổi cảnh hai chiếc thuyền rồng. Một chiếc đang đi với bốn người đóng khố chèo thuyền và một chiếc đã khuất. Dòng nước ở đây còn gợn sóng nổi lên hình cá lượn trên sông. Đây không phải là ảnh bơi chải bình thường thấy trong lễ hội dân gian, mà là cảnh bơi thuyền rồng. Chắc nghệ nhân muốn đưa hình ảnh này gắn với sự kiện hoàng tử Linh Lang cùng với tướng hành binh trên sông đi chinh phạt giặc ở phương Nam. Ở đây lại còn cảnh con cốc đang nghếch cổ lên, miệng thì ngậm con cá. Tất cả những mảng chạm khắc ở đình An Hòa đã góp phần nâng cao giá trị cho công trình kiến trúc lên rất nhiều. Các mảng chạm khắc không chỉ phong phú về nội dung, đa dạng về đề tài mà còn được thể hiện bằng những tay nghề điêu luyện làm cho những mảng trang trí ở đây có hồn, sống được cùng thời gian. Nhiều cơ quan Trung ương và địa phương đã về sao chép, phục chế để được giới thiệu rộng rãi những tác phẩm nghệ thuật đình An Hòa với nhân dân trong nước và thế giới. Đó là niềm tự hào cho địa phương.

Đình An Hòa là một công trình quy mô nên thờ cúng có quy cách lớn và được làm rất kỳ công, có giá trị về mặt nghệ thuật. Trong số bốn cỗ ngai ở đình có ngai cỗ tương đối lớn có quy cách 1,4x0,8x0,7m. Đây là hai ngai thờ Linh Lang đại vương và phò mã bản thổ tôn thần. Ngai được sơn son thiếp vàng lộng lẫy, rất kỳ công trong nghệ thuật tạo dáng và điêu khắc. Tay ngai làm kiểu rồng chầu, sáu trụ chạm sáu rồng leo, đan xen vân ám và các vòng tiện trang trí. Sập ngai là nơi đặt long bài cũng được tạo dáng rất đẹp theo kiểu chân quỳ dạ cá. Từ mặt sập, cổ sập, bệ dưới của sập cũng được gia công nghệ thuật bằng các đường chỉ viền, các băng hoạ tiết, lá sòi, cánh sen chạy quanh với các ô mảng chạm thong phong, tứ linh hoặc hoa lá rất sinh động.

Chiếc hương án ở chính gian giữa cao 1,5x1,7x0,75m cũng được làm rất cầu kỳ. Hương án chia làm hai phần có thể tháo rời một cách dễ dàng. Phần trên gồm mặt hương án, được làm to thân dưới, lại trang trí rất hài hòa. Từ bao loan với dáng rồng, ly đến các băng hoa lá viền mép, những khuông chạm tứ linh, hổ phù cũng được nhấn tỉa tài tình. Thân dưới hương án được tạo nhiều ô mảng theo các đề tài long chầu, phượng vũ, long mã đi trên nước, rùa ẩn hiện trong ao sen vừa cách điệu vừa rất hiện thực. Chính giữa thân hương án có cả mảng chạm long cuốn thuỷ, được đục kênh bong vừa đẹp vừa tổng thể, vừa hấp dẫn ở từng chi tiết. Hai bên hương án cũng được trang trí công phu theo nhiều đề tài.

Chiếc bát hương đồng cao 0,5m cũng là hiện vật tiêu biểu. Bát hương có hình trụ, bên tai là hai con rồng nổi vươn cao bám giữ thân bát hương. Hai bên còn đúc nổi hoạ tiết ly chầu, phượng múa, đôi hạc chầu, hổ phù, long mã và trên miệng bát hương còn có hình mặt nguyệt, âm ám, phía dưới nổi lên bốn chữ “Thánh cung vạn tuế” hài hòa với tổng thể. Tạo được một bát hương đồng mà họa tiết nổi lên như dính trên thành, trên miệng quả là một kỹ thuật khó, hơn nữa, các họa tiết trên bát hương đồng lại rất cầu kỳ. Đó là những thành tựu đáng tự hào về nghệ thuật cổ truyền của dân tộc.

Bức võng cố định rất lớn đã làm tăng vẻ uy nghiêm và vẻ đẹp cho công trình. Hệ thống riềm trên hai bức võng tạo dáng độc đáo được lắp vát nghiêng chếch về phía trước đã tạo thêm độ sâu và rất hài hòa với bố cục. Trên cùng cửa võng có những hoạ nét lượn cong chầu nguyệt, riềm hai bên chạm long chầu, phượng múa, ly và quy. ở giữa bức võng có bốn chữ "Thiên định phúc thần" (vị phúc thần do trời đưa xuống). Bức của võng được đục chạm trổ tinh xảo, lại bố cục đăng đối nên rất hòa nhập với tổng thể mảng chạm khắc của công trình trên.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:19 PM | Message # 17
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Đình đá Tiên Phong

Đình đá Tiên Phong thuộc thôn An Mông, xã Tiên Phong, huyện Duy Tiên, Hà Nam. Từ quốc lộ 1A, đến thị trấn Đồng Văn (thuộc huyện Duy Tiên) rẽ theo đường 60A đi 7km về thị trấn Hòa Mạc, rẽ theo đường 60B đi 6km về Điệp Sơn rồi theo đường liên xã 3km là tới đình.

Đình thờ Nguyệt Nga công chúa, nữ tướng của Hai Bà Trưng. Bà tên thật là Nguyễn Thị Nga, quê ở làng An Mông (còn có tên là làng Mống). Do bà không chịu làm tì thiếp cho Tô Định tham tàn bạo ngược nên bố mẹ bà đã bị giết hại. Nợ nước cộng với thù nhà khiến bà chiêu mộ binh sĩ, lấy mảnh đất quê hương làm căn cứ địa chiến đấu. Hiện nay ở An Mông còn có cánh đồng gọi là Đồng Binh nằm trong bãi sậy, tương truyền là nơi căn cứ địa khi xưa của bà. Năm 40, bà cùng vài nghìn nghĩa quân tình nguyện đi theo Hai Bà Trưng chống lại ách đô hộ của quan lại nhà Hán. Sau khi giành được chính quyền, Hai Bà Trưng phong cho bà là Nguyệt Nga công chúa, cử làm quan tại phủ Lý Nhân. Bà về quê, mở tiệc ăn mừng, lập sinh từ ở bên sông để sau này làm nơi hương khói thờ phụng. Mảnh đất lập sinh từ ấy đến nay vẫn còn ở khu bãi đồi ven sông Châu. Bà còn dạy dân trồng dâu chăm tằm, dệt vải nên người dân nơi đây tôn bà là bà tổ của nghề dâu tằm. Từ nhiều đời nay, trong lễ hội thờ bà cũng như khi tế tằm, dân thường khấn câu:

"Cầu cho hòa cốc phong đăng,
Cây dâu cũng tốt con tằm cũng tươi."

Khi Hai Bà Trưng thất thủ phải gieo mình xuống sông Hát, bà rút chạy về quê và tự tận trên ngã ba sông Mông. Nhân dân lập đền thờ bà, các triều đại đều sắc phong là Nguyệt Nga phu nhân tôn thần. Trong đình Tiên Phong còn đôi câu đối:

"Hùng khái thoa quân Tô bắc khứ.
Anh thư kiếm mã Việt Nam an."

(Lớp nữ nhi có khí khái anh hùng đuổi giặc Tô Định về phương Bắc.
Người con gái tài ba với thanh gươm yên ngựa giữ yên bờ cõi nước Nam.)

Theo truyền thuyết, đình đá An Mông được xây dựng lâu đời ở bãi bồi cạnh bờ sông, chính khu sinh từ của bà Nguyệt Nga. Nhưng sau do sông lở nên phải dời vào vị trí như hiện nay. Đình đá Tiên Phong được sửa chữa lại nhiều lần, đến triều Nguyễn thì tòa tiền đường được xây lại bằng đá còn tòa đệ nhị và chính tấm đều được làm bằng gỗ, mái lợp ngói nam. Đình hiện nay có 3 tòa được kiến trúc theo kiểu chữ công: tiền đường 5 gian, tòa đệ nhị 2 gian, chính tấm 3 gian. Độc đáo nhất là tòa tiền đường bằng đá được làm theo lối chồng rường, mê cốn, có 12 chiếc đại trụ (cột cái). Mặc dù cột cái được làm bằng đá song vẫn được làm theo dáng búp đòng, ở giữa phình to, hai đầu thu nhỏ lại. Hệ thống cột cái, cột quân, cột hiên của đình đá có tới 30 chiếc lớn nhỏ đều được chạm khắc kỳ công thể hiện sự công phu cũng như nghệ thuật chạm khắc tinh vi của cha ông.

Đình đá Tiên Phong là một trong số không nhiều ngôi đình được làm bằng đá còn giữ được đến ngày nay. Đình phải sử dụng hàng trăm khối đá vừa to, vừa dày mới có thể tạo thành năm hàng cột, 6 vì và nhiều xà ngang, xà dọc, chân tảng, mê cốn. Điều đặc biệt là trên các bộ phận bằng đá dễ tạo cảm giác nặng nề đó là các mảng chạm khắc nghệ thuật công phu, tạo cho đình vẻ mềm mại, sự sống động, hấp dẫn. Toà tiền đường của ngôi đình nổi bật với hệ thống cột đá lớn nhưng được thiết kế theo kiểu búp đòng thật mềm mại. Câu đối trang trí ở riềm hai bên, tại phần trên đầu hoặc dưới chân đều chạm những họa tiết hoa cách điệu, như cảnh sen quy, hoa chanh chữ thọ, phượng múa long mã hoặc những cành đào, chùm lựu rất sinh động. Mỗi câu đối còn chạm nổi hình con dơi, dang rộng đôi cánh như cắn lấy vế câu đối có nội dung rất đẹp, cầu phúc cho quê hương.

Bốn đại trụ ở hai vì chính giữa được chạm nổi hình rồng cuốn thủy, với những khúc uốn lượn mềm mại, những lườn cây theo nhiều kiểu tự nhiên, cùng với râu tóc, dòng nước bị cuốn trong miệng, hình ảnh con cá chép cong mình như đang bơi theo dòng nước trông tự nhiên. Nghệ nhân quả đã khéo léo dung hoà giữa tả chân và cách điệu, lại đục chạm, tỉa từng chi tiết rất công phu. Hai đường cột quân có đường kính 35cm, được tạo dáng bố cục trang trí những băng lá lật cách điệu rất nghệ thuật.

Hàng cột hiên cũng được làm bằng đá, đường kính 25cm nhỏ hơn cột quân nhưng gia công theo nhiều đề tài hấp dẫn như cảnh cây trúc, chim trĩ độc đáo, cảnh mai điểu (cây mai con chim), cảnh tùng lộc (cây tùng và con hươu) và cảnh cúc hóa long. Như vậy là hệ thống cột cái, cột quân, cột hiên của đình Đá có tới 30 chiếc lớn nhỏ, mỗi loại cột, mỗi vị trí cột có cách trang trí khác nhau để phù hợp với cách bố cục phục vụ theo yêu cầu thưởng thức, nói lên ước vọng của nhân dân.

Câu đầu rất to nằm trên hai đầu cột, cũng được tạo gờ, chỉ ở mép được trang trí lá lật cách điệu ở hai bên nên tuy chất liệu đá mà không có cảm giác khô cứng. Dưới hàng câu đầu có hệ thống đầu dư cũng bằng đá. Đầu là hình tượng đầu một con rồng vươn ra để gánh lấy câu đầu. Cấu kiện này tuy không đục chạm kênh bong, song việc thể hiện râu, tóc rồng cũng như các chi tiết khác cũng rất kỳ công.

Hệ thống mê nách được nhấn tỉa bởi các mảng triện tầu lá rất hài hòa. Riêng mảng bốn mê ở hai vì gian giữa được trang trí theo kiểu đề tài tứ linh. Nó mô tả hoạt động của những con rồng uốn khúc theo nhiều kiểu, những con long mã có dáng oai phong, dữ tợn nhưng vẫn đượm vẻ hài hước ngộ nghĩnh, cảnh con rùa ẩn hiện trong hồ và nét dí dỏm của bẩy ly bé hoà nhập trong cảnh tứ linh.

Ngoài hệ thống cấu kiện đã nêu, đình đá Tiên Phong còn có hàng kẻ hiên cũng bằng đá, tạo dáng mềm mại uyển chuyển của con rồng. Hai thành kẻ cũng như các mảng mê ở hiên được đục chạm các mảng lá lật, cảnh mai hóa long, cúc, trúc hóa long rất công phu.

Ngoài các mảng chạm khắc trên đá, đình đá Tiên Phong còn có một số đồ thờ có giá trị nghệ thuật đáng được lưu ý. Ngai thờ ở hậu cung có kích thước 1,2x0,6x0,6m, được tạo dáng, chạm khắc công phu. Tay ngai với đôi rồng chầu uốn lượn có 6 trụ tròn cắm xuống sập, phía sau là phần lưng được bố trí khá hài hòa. Mỗi trụ tay ngai là một chiếc cột nhỏ, có rồng quấn quanh rất có giá trị thẩm mỹ. Sập ngai được phân chia theo tỷ lệ hợp lý, lại tạo các băng cánh sen, triệu tàu, các mảng chạm nhỏ trong khuôn trang trí như cảnh long chầu, hoa, chanh rất công phu. Phần thân, đế sập cũng được trang trí các họa tiết hoa, lá, hổ, phù, mây tán có sức thuyết phục cao.

Đình Tiên Phong còn giữ được nhiều đồ thờ tự có giá trị như sập thờ, ngai thờ, kiệu bát cống, một số bức đại tự và nhiều kiếm thờ phục vụ các đội nữ binh trong những ngày lễ hội.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:20 PM | Message # 18
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Đình Triều Hội

Đình Triều Hội thuộc xã Bồ Đề, huyện Bình Lục là nơi thờ cúng hai vị thành hoàng làng. Một vị là Cao Mang tôn thần, tướng tài nhà Trần và một vị là Trần Xuân Vinh đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ được bố làm quan dưới triều vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức. Thần phả của hai vị thần nay đã thất lạc, song dân làng vẫn truyền tụng câu chuyện kỳ là về vị tiến sĩ đời Lê Trần Xuân Vinh.

Truyền thuyết kể lại rằng, sau khi đỗ tiến sĩ, trên đường về thăm quê bằng đường sông Châu, thuyền của ông và cha mẹ ông đều bị lật, cả nhà bị chết đuối, xác ông trôi vào Bãi Nhót. Dân lập một ngôi miếu nhỏ để thờ ông. Ngôi miếu rất linh thiêng nên dân làng đã xin chân nhang về lập đình thờ ông làm thành hoàng. Như vậy, theo truyền thuyết và theo suy luận logic thì vị thần Cao Mang đời Trần chắc đã được thờ từ trước, sau khi có miếu thờ vị tiến sĩ triều Lê thì lập đình cùng phối tự hai vị thần này.

Đình Triều Hội được kiến trúc theo kiểu chữ tam: tiền đường năm gian, cung đệ nhị năm gian và chính tẩm ba gian. Ngôi đình đã được tu bổ nhiều lần và trên thượng lương có ghi một lần tu sửa vào niên hiệu Thiệu Trị thứ sáu. Tiền đường năm gian, được lớp bằng ngói nam, bờ nóc được đắp lưỡng long chầu nguyệt. Bộ khung cửa đình được dựng bằng gỗ lim. Nền nhà được lát bằng gạch chỉ soi ống tơ đúng với phong cách cổ kinh của đình làng Việt Nam. Bộ cửa được làm theo kiểu bức bàn, trên song dưới lùa. Cung đệ nhị được sửa chữa nhiều lần, chạm khắc chỉ còn lại trên các câu đầu, xà nách 4 kẻ với các mô típ hoa văn cách điệu đơn giản. Chính tẩm 3 gian được thiết kế bằng gỗ lim như tòa tiền đường tuy chạm khắc ở đây không cầu kỳ bằng.

Đình Triều Hội được xếp hạng di tích lịch sử vì nơi đây đã diễn ra cuộc biểu tình tuần hành thị uy của nông dân trong vùng vào ngày 20/10/1930. Cuộc tuần hành này nhằm phát động quần chúng đấu tranh đòi bãi bỏ hội đồng cải lương, đòi giảm sưu thuế, ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh và cuộc đấu tranh của nông dân Tiền Hải, Thái Bình. Xã Bồ Đề được chọn làm địa điểm cuộc biểu tình đó vì Tỉnh ủy Hà Nam nhận định, nơi đây chẳng những phong trào vững mà còn là nơi tiếp giáp 3 huyện Bình Lục, Lý Nhân, Mỹ Lộc nên có thể tập trung phát huy thanh thế.

Thời gian của cuộc biểu tình được ấn định vào ngày 20/10 vì đó là phiên chính của 3 chợ Bồ Đề, Thành Thị và An Ninh. Đúng 7 giờ sáng, tiếng trống ở đình Triều Hội vang lên, cờ đỏ búa liềm tung bay, những người tham gia biểu tình đóng giả người đi chợ bắt đầu đứng vào hàng ngũ. Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Hà Nam và Huyện ủy Bình Lục, đoàn biểu tình đi đến những điểm quy định như Điếm Tống, chợ Đồn (An Ninh), Ba Hàng (Thành Thị), vừa đi vừa diễn thuyết, phát truyền đơn kêu gọi mọi người vùng dậy đấu tranh chống đề quốc phong kiến, chống khủng bố đánh đập, ủng hộ Xô Viêt Nghệ Tĩnh. Đoàn biểu tình ngày một đông, xuất phát từ chợ Bồ Đề 300 người đến chợ Vạc (An Ninh) đã lên tới hàng nghìn người.

Trước khi thế cách mạng ngùn ngụt của cuộc biểu tình, bọn địa chủ, cường hào, tay sai của thực dân Pháp rất hoảng sợ. Đến 12 giờ trưa, các đồng chí lãnh đạo quyết định làm mít tinh tại chợ Vọc rồi giải tán. Cuộc biểu tính thắng lợi hoàn toàn. Thắng lợi của cuộc biểu tình là thắng lợi chính trị quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến phong trào đấu tranh chính trị trong tỉnh và trong cả nước. Sự kiện này đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lấy là một chứng minh về tinh thần và khả năng cách mạng của nông dân Việt Nam trong thư báo cáo với Quốc tế nông dân ngày 5 tháng 11 năm 1931.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:21 PM | Message # 19
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Đình Lũng Xuyên

Đình Lũng Xuyên thuộc thôn Lũng Xuyên, xã Yên Bắc, huyện Duy Tiên.
Từ Thị xã Phủ Lý theo quốc lộ 1A, đến thị trần Đồng Văn 11 km, rẽ tay phải theo đường 60 về thị trấn Hòa Mạc 7 km, lại rẽ tiếp tay phải theo đường liên xã khoảng 1,5 km thì tới đình Lũng Xuyên.

Đình Lũng Xuyên thờ vị anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt. Theo truyền thuyết của người dân địa phương, con sông Châu chảy qua địa phận Lũng Xuyên là con đường thủy mà Lý Thường Kiệt cùng các chiến binh của ông thường qua lại khi đóng quân ở vùng Thịnh Châu hạ và An Xá. Trong các lần tuần binh qua, ông và quân sĩ đã có lần nghỉ tại đây. Xung quanh làng Lũng Xuyên còn thấy có nhiều các gò đống, tương truyền đây là nơi để buộc thuyền chiến và để đồ dùng của các đạo quân do Lý Thường Kiệt chỉ huy. Nhân dân địa phương cho rằng, Lý Thường Kiệt đã từ Thăng Long, theo sông Hồng, vào sông Châu (có nghỉ lại Lũng Xuyên), rồi ra sông Đáy. Hiện nay, tại đình vẫn còn nhiều bài văn tế ca ngợi công lao, nhân đức của Thái úy, ở hai cung còn có hàng chữ khắc trên xa ngang của vì kèo thứ nhất giáp với tiền đường “Phát Tống bình Chiêm, an dân muôn thuở”chính là để ngợi ca công lao to lớn của ông đối với đất nước.

Đình được xây dựng trên mảnh đất rộng, cao ráo, thoáng đãng. Đình quay hướng nam, được kiến trúc theo lối chữ đinh, tiền đường 5 gian, hậu cung 3 gian. Tòa tiền đường dài 17m20, rộng 8m80, mái cong, lợp ngói nam, đứng hàng, thẳng lối, ngói lợp kiểu móng rồng. Mặt tiền của tòa tiền đường là dãy cửa bức bàn, khung được tạo bằng các gờ chỉ, giữa là ván bưng tạo kiểu panô. Hai bên xây bít bằng tường gạch, giữa bức tường có hai cửa sổ. Hai hàng cột trong tòa tiền đường được làm kiểu búp đòng, giữa to hai đầu nhỏ, đặt chân trên tảng đá xanh hình vuông, trên mặt đá tảng nổi gương tròn tương xứng với đường kính của chân cột. Dàn mái còn giữ được một số hoành tròn đường kính 12cm, các lần trùng tu sau này bổ sung nhiều hoành vuông có cạnh 12cm.

Hậu cung 3 gian bắt mái với gian giữa của tòa tiền đường, cửa giữa của hậu cung có mảng chạm hai con long mã chầu, mặt hổ phù với chân nắm lấy đầu của hai con long mã. Dưới bức chạm là bức đại tự khắc 4 chữ Hán lớn: "Sơn xuyên chung tú" (sáng đẹp cùng sông núi). Ra vào hậu cung chủ yếu qua 2 cửa nách, cửa giữa thường xuyên đóng, chỉ mở khi có đại lễ.

Ở sân đình còn có hệ thống cột đồng trụ, gồm có đế trụ đắp theo kiểu thắt cổ bổng, thân cột được đắp gờ nổi ở bốn cạnh, phía trên là đèn lồng và trên cùng là trục đỡ hai quả dành dành lớn. Tiếp đến là tả môn và hữu môn đăng đối, mỗi cửa có 4 mái cong với đầu đao, ngói ống. Trong sân là hai dãy tảo xá, mỗi dãy 3 gian dùng để đón khách trong các kỳ lễ hội. Tổng thể công trình tạo thành một thể thống nhất từ bố cục đến nghệ thuật chạm khắc, tạo vẻ cổ kính, thể hiện chiều sâu văn hóa của ngôi đình.

Tại nơi đây, đêm 19 tháng 8 năm 1945 lực lượng chính của đội quân cách mạng giành chính quyền của huyện đã tập trung để chờ lệnh xuất phát. Sáng sớm ngày 20 tháng 8 năm 1945, tại sân đình Lũng Xuyên 3 tiểu đội vũ trang của huyện đã làm lễ tuyên thệ trước lá cờ tổ quốc, sau đó tiến quân theo kế hoạch đã định.

Đình Lũng Xuyên có một số mảng chạm khắc đẹp được các nghệ nhân xưa dày công trau chuốt. Trên các bờ bảng, bờ dải, giao góc của đình được đắp hình các con xô, phượng, đầu kìm. Đặc biệt, trên bờ nóc, đắp đôi rồng chầu mặt nhật. Rồng uốn 3 khúc, đầu rồng nhô cao, dao bay về phía sau, thân rồng được tạo vẩy bằng các mảnh sành sứ vỡ. Hai đầu hồi còn đắp hai đầu rồng và có dao cong.

Ở tòa tiền đường, trên các vì kèo, xà nách có chạm trổ hình đầu và thân rồng với nhiều dáng vẻ: con thì dữ tợn, con thì hiền từ, râu tóc xoắn theo nhiều kiểu khác nhau. Các vì góc và các con rường cũng đục hình lá lật, lá hỏa cách điệu.

Trên vì nách bên phải phía ngoài gian giữa có nhiều mảng chạm khắc với nhiều đề tài phong phú. Đề tài được thể hiện ở đây là long cuốn thuỷ: con rồng uống thành 3 khúc. Phía trên đầu rồng là con phượng xòe cánh như đang bay. Đằng sau rồng là con ly đang cười. Phía dưới rồng là con rùa, cá chép, cua đang vui đùa, đan xen các con vật là hình vân mây sóng nước hoa sen khoe sắc và các lá sen. Dưới nách xà chạm hình con ly đang cầm thẻ bài, trên thẻ có hai chữ Đại vương bằng chữ Hán.

Mảng chạm đối diện với mảng trên là cảnh long vân tụ hội: con rồng vẻ mặt tươi vui hai chân dang ra hai bên, các ngón bám chặt lấy hai đám mây. Trên cùng là phượng, bên phải là long, mã, bên trái là ly, phía dưới là rùa, cá chép, đan xen các hoa sen, lá sen cùng các hình vân mây song nước. Dưới xà nách chạm nổi một con ly đang cười, hai chân đang rẽ nước.

Trên xà nách phía sau gian giữa là mảng chạm cảnh mẫu long giáo chủ: rồng mẹ, rồng con đang vui đùa với nhau, những con rồng con nghịch ngợm cưỡi trên đầu, bám trên thân và vờn dưới chân của rồng mẹ. Phía trên và dưới đều chạm hình phượng dạng xòe cánh như đang vui cùng với rồng. Dưới chân rồng mẹ còn có long, mã và ly đang nhìn về phía rồng con. Dưới cảnh này là rùa trên lưng đeo ấn cùng với hoa, lá sen, sóng nước. Ngoài đề tài trên còn có cảnh núi non cây cối và một ngôi miếu nhỏ, bên cạnh ngôi miếu là một dòng sông, sóng nước đang cuồn cuộn.

Mảng đối diện có bố cục trung tâm là cảnh rồng cùng ly, long mã đang vui đùa. Chân rồng nắm lấy mình con ly, long mã thì đang nhảy bên trên là hai con phượng đang bay. Phía dưới là ảnh ao sen, trong ao sen là rùa, cá chép, tôm, cua đang bơi.

Mặt sau của các mảng chạm khắc này đều chạm nổi các cảnh tùng lộc, mai hóa long, trúc hóa long, cúc hóa long.

Ở xà góc của gian bên phải có mảng chạm khắc độc đáo. Hai con rồng lớn đang cuộn mình vào nhau, đao, râu, tóc, bay thẳng về phía sau, xung quanh sóng nước cuồn cuộn. Trước mặt rộng chạm cảnh một cây tùng lá to, trên cây có bốn con chim đang hót, ở giữa thân cây là ba con khỉ đang đánh đu, hái quả và trêu đùa nhau, vắt vẻo trên cành cây. Ở đây chất cung đình và chất dân gian đã kết hợp, hòa quyện vào nhau.

Chạm khắc trên các xà lòng, xà nách tuy đơn giản nhưng đáng chú ý ở sự gia công tinh tế trong việc tạo độ nhấn, soi chỉ, soi ống tơ và tạo hình hoa lá cách điệu. Tổng thể công trình tạo thành một hệ thống nhất từ bố cục đến nghệ thuật chạm khắc, giải pháp kỹ thuật. Do đó đình Lũng Xuyên mang đậm phong cách kiến trúc cổ truyền của dân tộc.

Trước đây đình Lũng Xuyên có nhiều đồ thờ tự đẹp. Qua năm tháng chiến tranh, nhiều hiện vật bị mất mát. Hiện nay trong hậu cung chỉ còn cỗ ngai thờ thần hoàng Lý Thường Kiệt là tiêu biểu, ngai cao 1,1m chạm khắc tập trung trên thân và tay ngai. Tay ngai tạo thành hai đầu rồng, đao bay về phía sau. Thân ngai là hàng song tiện, ở giữa tạo hình rồng cuốn quanh lấy song. Lưng ngai uốn cong, giữa lưng ngai phía trên là hình mặt trời đang tỏa ánh hào quang, bên dưới chia làm ba ô đục thông phong hình phượng múa, mặt hổ phù long mã, ở hai bên điểm lưng ngai chạm trôt hình rồng lượn. Đế ngai được làm kiểu chân quỳ dạ cá, bốn chân tạo thành bốn đầu rồng. Chính giữa mặt đế trước là mặt hổ phù được chạm tỷ mỷ, miệng ngậm chữ thọ. Phía trên mặt hổ phù là các băng cánh sen dẹo, lá sòi đẹp mắt.

Cùng với các đồ tế khí khác như quả chuông nhỏ, đỉnh hương đồng và cây nến đồng, ngai thờ đã tạo nên vẻ cổ kính cho ngôi đình thờ vị thành hoàng từ hơn 1 thiên niên kỷ trước.

Trong hậu cung còn có chiếc chuông nhỏ cao 50cm, đáy 30cm, quai chuông tạo hình hai đầu rồng một thân. Ngoài ra, đình Lũng Xuyên còn có một bộ tam sự bằng đồng gồm đỉnh hương và hai cây nến. Đỉnh hương cao 50cm, thân hình bầu, có gắn hai quai, 3 chân tạo hình chân ly, nắp tạo hình con nghê đang cười.

Những hiện vật trên góp phần tạo nên giá trị văn hóa của đình Lũng Xuyên.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:23 PM | Message # 20
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Đình Văn Xá

Đình Văn Xá thuộc thôn Văn Xá, xã Đức Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, một ngôi đình có niên đại sớm nhất ở Hà Nam còn lại đến nay và cũng được xếp hạng sớm nhất từ năm 1962. Đình quay hướng chính Nam đúng trục của trời đất (Bắc - Nam, Đông - Tây), toạ lạc trên một khu đất cao ở giữa làng, không gian thoáng đãng. Xưa kia đây là khu rừng rậm, cây cối um tùm. Trước đình là hồ nước có diện tích 9800m vuông, ao đình và đặc biệt hai bên đầu Đông, Tây đại đình có hai giếng nhỏ là hai mắt rồng, trong đó có giếng phía tây là “giếng thiêng” gắn liền với truyền thuyết về nhân vật thờ ở địa phương.

"Miếu thiêng có giếng thông thư,
Quả bòng cẩn kín tin đưa đi về…"

Sông Hồng, sông Long Xuyên, sông Châu chảy qua đất Lý Nhân, nhìn trên bản đồ bao bốn mặt ngôi đình như là tứ giác nước mà đình Văn Xá là não thuỷ.

Đình Văn Xá thờ 4 vị thần: Thánh phụ hiệu: Cao Minh linh thuý huý là Cao Văn Phúc, Thánh mẫu huý là Từ Văn Lang, Cao Minh linh ứng huý là Câu Mang huynh và Cao Minh linh nghiệm huý là Câu Mang đệ.

Thánh phụ nguyên phát tích ở xã Văn Lâm (Thanh Liêm) vào thời vua Lý Thái Tổ (1010-1028), tính tình khoan dung, độ lượng song nhà nghèo khổ sống chủ yếu bằng nghề chài lưới, mò cua, bắt cá. Thánh mẫu quê ở xã Văn Xá (Lý Nhân) đức hạnh thuần hoà, nhà nghèo quanh năm mò cua, bắt ốc sinh nhai. Hai người gặp nhau cùng chung cảnh ngộ nên duyên vợ chồng, một mối tình đẹp của bao đôi lứa người Việt. Khi trời đất giáng hoạ dịch bệnh hoành hành không người cứu giúp, Thánh phụ, Thánh mẫu đã hiển ứng gọi gió, mây mưa làm thuốc cứu dân. Thánh mẫu còn giúp triều đình vua Lê Thái Tổ niên hiệu Thuận Thiên (1428-1433) dẹp loạn cướp bóc cho quốc thái dân an. Khi các vị hoá, triều đình ban sắc phong, dân xã lập đền miếu phụng thờ để ghi nhớ ơn đức với dân với nước.

Dọc hai bờ sông Châu và sông Long Xuyên (con sông cổ của huyện Lý Nhân) có nhiều di tích thờ Câu Mang thuỷ thần như Mạc Hạ (Công Lý), đình Tróc Nội (Nhân Đạo), Phú Khê (Bắc Lý), Vạn Thọ (Nhân Bình), Thượng Nông, Hạ Nông (Nhân Nghĩa). Song thuỷ thần Câu Mang ở những di tích đó đều sinh ở thời Hùng Vương do người mẹ đi tắm, giao long quấn vào người từ đó mang thai. Vua sai ngài đi trị thuỷ, đi đến đâu viết thư bắn xuống thuỷ cung tức thì nước rút hết. Ngài còn có công cùng Tản Viên Sơn Thánh đánh tan quân xâm lấn bằng hai đường thuỷ bộ, được phong là Cao Mang Đại Vương Thượng đẳng phúc thần. Truyền thuyết về hai vị Thuỷ Thần được thờ ở đình Văn Xá hoàn toàn khác, Thánh phụ, Thánh mẫu đi kiếm ăn trên sông Trung Hà thuộc đất An Bài (Bình Lục) vớt được hai quả trứng trắng nổi trên mặt nước giữa sông mang về nhà nấu không chín đập không vỡ. Một trăm ngày sau nở ra một đôi Bạch Xà trên đầu có chữ Vương, dưới bụng có chữ Câu Mang huynh và chữ Câu Mang đệ. Hình ảnh quả trứng này có ý nghĩa triết lý sâu sắc. Phải chăng là quả trứng tiên thiên thái cực vô sinh vô diệt, vô nguồn sinh ra muôn loài. Nó lại làm ta liên tưởng đến việc sinh trăm trứng của bà Âu Cơ. Khi nước sông dâng to, đê vỡ, các vị đã hiện về, đầu gối bên này, đuôi chạm bên kia nằm chặn ngang dòng nước chảy, Trấn quan coi đê cùng dân làng thừa kịp hộ đê. Đó là một hành động kỳ vỹ, biểu hiện ước mơ làm những việc phi thường của người dân lao động xưa.

Mặc dù hệ thống cột đồng trụ, hai cổng phụ, bình phong, tường bao mới được xây dựng những năm gần đây và hậu cung ba gian dài 11m, rộng 5m xây dựng bít đốc dập cấp, thức kiến trúc chồng rường, bẩy tiền, kẻ hậu…được dựng thêm vào thời Nguyễn về sau tạo thành bố cục mặt bằng hình chữ Nhị, song những công trình đó vẫn hài hoà với kiến trúc cổ của toà đại đình. Ban đầu đình Văn Xá chỉ có một toà Đại đình cò được thờ bằng sàn gỗ? Dấu tích còn lại là những lỗ mộng ở hai cột cái phía trong gian giữa.

Toà đại đình đình Văn Xá là một công trình kiến trúc nghệ thuật có quy mô lớn, bảo tồn được những yếu tố nguyên gốc về kiến trúc, điêu khắc, đồ thờ cổ thư đậm đà phong cách đầu thế kỷ XVII.

Đại đình có chiều dài 21m, lòng rộng 8,8m, ba gian hai chái bốn mái cong, lợp ngói nam. Trải qua nhiều đợt trùng tu với nhiều loại ngói khác nhau song toàn bộ mái trước đình vẫn giữ được loại ngói mũi hài độc đáo, mỗi viên có chiều dài 40cm, rộng 29cm, có viên nặng từ 9 đến 11kg. Mũi ngói trang trí hoa cúc cách điệu cùng văn xoắn, đao mác. Có lẽ duy nhất đình Văn Xá có loại ngói này.

continute....


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:24 PM | Message # 21
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Hãy hình dung mấy trăm năm trước đồng nước mênh mông thì đình Văn Xá lật ngược lại giống như một con thuyền to lớn vững chãi uy nghi và rất đẹp bồng bềnh vừa thách thức lại vừa bay bổng. Tỷ lệ vàng giữa thân và mái: thân 1/3, mái 2/3 là tỷ lệ của người Việt cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII. Hiện nay trên cả nước rất ít những ngôi đình cùng niên đại còn giữ được tỷ lệ này như đình Văn Xá. Tiếp giáp giữa sân, qua hiên vào gian giữa (gian của thần) tới gian thờ được lát bằng đá tấm, đình Văn Xá còn lưu giữ được. Để thông ân dương nền của đình, đền, chùa ngày xưa phổ biến là nền đất đầm kỹ. Song hình Văn Xá xử lý theo cách riêng như đã nêu. Đá - sản phẩm của tự nhiên người xưa cho là sản phẩm của vũ trụ, trường tồn qua thời gian, dù rằng có câu: “nước chảy đá mòn” mang ý nghĩa khác hẳn. Đây cũng là một nét độc đáo nữa của đình Văn Xá. Bộ khung chịu lực của toà đại đình bằng gỗ lim già có 6 vì, mỗi vì có 4 hàng chân cột đều được kê trên chân tảng đá xanh vuông 1,2m, mặt nổi gương tròn, xung quanh tạo thành cánh xen cách điệu. Cột cái có chu vi 2,5m, cao 4,m. Cột chân có chu vi 1,25 cao 2,7m. Bốn cột góc cao 3,3m. Bộ khung ấy thấp khoẻ, cột đúng nghĩa “to như cột đình” bám chặt vào đất tảng nền của cư dân nông nghiệp luôn khao khát mở rộng đất đai. Không chỉ có thế, đất đình Văn Xá tuy không còn rộng như xưa nhưng nay vẫn còn bao quanh hai bên phía sau đình. Với người Việt xưa quá trình mở đất là ở phương nào có thể và chỉ dừng lại trước biển cả. Đình Văn Xá ánh xạ lịch sử là ở chỗ đó.

Thức kiến trúc cả bốn vì (gian giữa và hai gian bên) theo kiểu “giả” giá chiêng, chồng rường, mê cốn, kẻ, đầu kẻ “giả bẩy”. Hai vì trái kết cấu hài hoà giữa các hạng mục: trụ cái (cột trốn) câu đầu, kẻ góc, xà đùi, xà nách cùng 4 hàng con rường đỡ hành mái.

Vì nóc đình Văn Xá thể hiện lối giả giá chiêng, hai bên chồng rường. Đặc biệt, đội thượng lương là chiếc đấu hình thuyền cong ngồi trên lưng con rường bụng lợn. Đứng trên đấu thắt đáy có những hàng trụ trống cột, hai bên là hai ván bưng nhỏ. Từ thân cột sang hai bên là hai con rường cụt, một đầu ăn mộng cột trốn, một đầu ăn mộng vào mái đỡ hoành. Câu đầu khá lớn, to mập, hai bên bào soi vỏ măng, nằm ngay trên một đỉnh đấu vuông thắt đáy trên đầu cột trái. Đuôi kẻ ăn mộng én vuông vào đầu cột cái nối qua đầu cột quân nhô ra ngoài (giả bẩy) đỡ mái hiên. Trên lưng kẻ là ván dong đỡ hoành. Đặc biệt ở 4 vì góc hai gian chái, mỗi gian có hai kẻ góc (kèo cổ ngỗng, kèo moi). Thường những năm về sau người ta cắt đi ở phần cột trốn, không đẩy lên thượng lương.

Chạm khắc trên kiến trúc được thể hiện ở hầu hết các cấu kiện (cả mặt trong lẫn mặt ngoài) với kỹ thuật trạm nổi kênh bong với nhiều đề tài khác nhau thể hiện bàn tay điêu luyện của các hiệp thợ, các nghệ nhân dân gian xưa. Mặt ngoài vì nóc gian giữa chạm nổi các hình văn xoắn lớn như ước vọng cho sấm chớp mây mưa để cầy cấy, mùa màng bội thu. Kế thừa và gìn giữ thức kiến trúc giữa thời Trần với thời Mạc, cột trốn mang hình thức đấu còn rất nhỏ, lá đề ở trung tâm. Trên mặt lá đề là hình tượng trang trí thống nhất một đề tài. Cột trốn như bị ẩn đi, bằng nghệ thuật chạm khắc từ thân cột trên sang hai bên là hai con rường cụt. Đường diềm kết hợp ở nhiều thân gỗ con rường.

Trên các bộ vì nóc, đề tài rồng chầu khá phổ biến, nhưng dưới nhiều hình thức khác nhau: rồng chầu lá đề, hoa cúc cách điệu, chầu thú. Kẻ ở các vì hơi cong có đường kính lớn tới 47cm được trạm hình rồng dữ tợn. Thân rồng được nhấn tỉa những đao nhọn. Đầu rồng vuốt ngược về phía sau như đang chuyển động. Phía sau là hình con ly đang nhảy múa. Thân kẻ trạm lá hoả, đường soi ống tơ mềm mại. Các cốn ở chái trạm khắc nền rồng đa dạng, điểm xuyết các bông cúc mãn khai cách điệu, lá lật, lá hoả, vân xoắn cầu kỳ tinh xảo.

Câu đầu ở các vì khá lớn, cân xứng hài hoà với cột cái. Lòng câu đầu trạm nổi hai hình dạng lá sòi kết hợp vân xoắn, hoa cúc cách điệu. Giữa câu đầu gắn ô vuông chém góc hình cánh sen. Ô vuông chém góc là sản phẩm của thế kỷ XVII, không phải là tư duy nông nghiệp mà là tư duy của kinh tế thương mại. Hiện tượng này gợi ý ở vùng này có dòng họ gắn với kinh tế thương thuyền. Ở các di tích dưới câu đầu gian giữa là đầu dư tạo hình đầu rồng, ở đình Văn Xá đầu dư được thay thế bằng ghé tạo hình ghê lấy vai gánh đỡ câu đầu, đây là điểm độc đáo ít gặp. Ở con rường thứ 3, mặt trong hai vì gian giữa chạm mỗi bên một con lân ở phía trên nhang án, mặt ngoảnh ra ngoài vẻ xét nét hàm ý kiểm tra tư cách và nội tâm của người vào lễ thánh. Ở mặt trong xà đùi hai gian chái và mặt ngoài đầu kẻ hiên ngang bên phải có bức trạm trúc hoá long điều này cũng khá quen thuộc, nhưng bất ngờ ở đây là trúc lại có hoa một điều chưa bao giờ có, vô lý nhưng lại có lý ở lối nhìn siêu thực với cảm quan và tâm lý người Việt xưa mong muốn điều khác thường tốt lành xảy ra, khao khát sinh sôi nảy nở những người tài giỏi ra giúp nước yên dân.

Hai gian trái đại đình, mỗi gian có hai kẻ góc. Một chiếc hình đầu rồng thân thu nhỏ về phía đuôi. Chiếc bên chạm hình đầu phượng, con thú nhỏ đang nô đùa. Hai chiếc kẻ chạy suốt từ thượng qua cột trốn xuống cột góc ra đầu góc đao lớn. Gánh đỡ góc đao trước và sau đầu hồi phía tây đình là hai con hổ với tư thế khác nhau một con trong tư thế ngồi chầu. Một con trong tư thế hai chân trước nắm bắt một con thú. Đây cũng là một nét độc đáo của đình Văn Xá. Có ý kiến cho rằng đó là do hai hiệp thợ, vì góc đao hồi phía tây chỉ để con guột nở xoè trực tiếp gối lên trụ tường. Lại có ý kiến: Theo truyền thuyết sau đại đình ngày xưa có một khu vườn rậm rạp cây cối um tùm như rừng. Một hôm có hai con hổ về ngồi chầu hai bên từ đó dân làng gọi là :“vườn Chầu”. Vì vậy các hiệp thợ chạm khắc hình hai con hổ gánh đỡ đầu đao để ghi lại điển tích. Dân làng còn làm hình tượng hai con hổ nằm phủ phục trong cũi gỗ để thờ hai bên chầu vào hậu cung và rước trong kỳ lễ hội “Đồng Văn” với xã Văn Lâm (Thanh Liêm).

Đình Văn xá là công trình kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu độc đáo còn lưu giữ nhiều đồ thờ cổ thư quý hiếm mang phong các thời Mạc, hậu Lê hương án, long ngai, kiệu song loan, chúc văn, sập thờ…

Hiện vật sớm nhất là chiếc mâm gỗ đựng hoa quả hình bát giác sơn son thếp vàng được trạm khắc nhiều đề tài rồng chầu hoa cúc, rồng dáng, cánh sen dẹo mang giá trị trạm khắc thời Mạc (cuối thế kỷ 16). Mâm bày lễ vật dâng thần linh hàm chứa ý nghĩa dịch học (bát giác = bát quái).

Trong Hậu cung đình có một nhang án nhỏ dại 1,2m cao 0,6m được trạm hoa văn dày đặc trong các ô hộc. Các đường phân chia nổi khối thể hiện những khúc rồng. Trên xà đấu tại đôi rồng chầu hoa cúc, cuốn xung quanh xà, thân rồng rất dài đặc biệt rồng chạm nằm ngang nhìn thẳng chính trung tâm. Hiện tượng này xuất hiện từ trước, đặc biệt vào thời Lê sơ.

Sau ngày phổ biến trong trang trí kiến trúc và hiện vật ở kinh đô Phú Xuân thời Nguyễn ở Huế.

Cỗ kiệu song loan độc đáo, bành kiệu trạm nổi phù điêu đầu phượng. Thân kiệu trạm khúc hoá long, đuôi kiệu trạm hình đuôi Phượng, dáng đao bay về phía sau. Trên Long đình mặt trước và sau có hai bức trạm thông phong. Một mặt là hình Lưỡng Long chầu nguyệt, một mặt là hai con phượng chầu chữ thọ.

Đình Văn Xá ẩn chứa nhiều tín hiệu cần được đọc và giải mã từ Thành hoàng đến vị trí, không gian, kiến trúc, điêu khắc…Trên các góc độ lịch sử, xã hội, tín ngưỡng, mỹ thuật… Bài viết này chỉ giám nói đôi điều sơ khởi và thô thiển trên hành học hỏi, hiểu hành về một trường hợp cụ thể trong kho tàng văn hoa dân tộc.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:25 PM | Message # 22
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Đền Vũ Điện

Đền Vũ Điện, còn gọi là Đền Bà Vũ, miếu vợ chàng Trương, thuộc thôn Vũ Điện, xã Chân Lý, huyện Lý Nhân, Hà Nam. Đền Vũ Điện nằm ngay sát ven bờ sông Hồng ở phía bắc xã Chân Lý. Từ thị xã Phủ Lý theo đường 62 về thị trấn Vĩnh Trụ, đi tiếp ra Cầu Không, rẽ trái lên Vũ Điện theo đường Phú Trạm là đến di tích.

Đền thờ bà Vũ Thị Thiết, người con gái phủ Nam Xang đã sớm được chép vào sách Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Chuyện kể rằng, ở trang Vũ Điện, phủ Nam Xang có một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết, vợ chàng Trương sinh là người cùng làng. Mới lấy nhau được ít lâu thì chàng Trương phải ra trận dẹp giặc. Nàng sinh được một đứa con trai tên là Đản. Để dỗ con, tối đến, nàng chỉ lên cái bóng trên vách và bảo với con đó là bố. Khi Trương Sinh trở về, đứa bé không chịu nhận bố, nói rằng có một ông bố khác tối mới đến chơi. Trương Sinh ngờ vực vợ có tư tình với ai thì lửa giận bốc lên ngùn ngụt, mắng nhiếc vợ thậm tệ, không để vợ giãi bày. Nàng Vũ ôm mỗi oan không thể tỏ bày ra sông tự vẫn.

Tối đến, thấy con chỉ cái bóng trên vách bảo đó là bố, Trương Sinh mới biết mình nhầm, hối không kịp nữa. Chàng lập đền giải oan cho vợ ở bến sông, nơi nàng vừa tự tận. Dân làng thương tiếc người con gái nhân hậu của quê hương cũng lập đền thờ nàng. Ngôi đền rất linh thiêng.

Tương truyền, đền bà Vũ đã từng âm phù cho đại quân của vua Lê Thánh Thông thắng trận. Khi đại quân khải hoàn, nhà vua xuống chiếu cho quan dân địa phương Vũ Điện sửa lại ngôi đền khang trang hơn. Thuyền bè qua lại vùng sông nước này thường đến lễ ở đền bà để xin bà phù hộ cho thuận buồm xuôi gió. Ngôi đền linh thiêng với câu chuyện thương tâm của bà Vũ đã từng là đề tài cho biết bao thi nhân như Lê Thánh Tông, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến…

Những lời thơ của các thi nhân đã nói hộ lòng thương tiếc, ước muốn giải oan cho người phụ nữ chịu nhiều đau khổ, mối đồng cảm sâu sắc của người đời đối với nỗi oan trái hãy còn dằng dặc ở trên đời và lòng ngưỡng mộ đối với moọt tấm gương trinh liệt. Phải chăng vì thế mà ngôi đền thờ bà đã và vẫn sẽ còn có sức thu hút mối quan tâm của nhiều vãn khách xa gần.

Theo truyền thuyết của người dân địa phương thì ngôi đền này được xây dựng từ thế kỷ XV, ngay sau cái chết oan uổng của bà Vũ. Ban đầu chỉ là ngôi miếu nhỏ nứa lá tranh tre do dân địa phương dựng nên. Sau khi có chiếu của vua Lê Thánh Thông, ngôi miếu mới được sửa lại thành một ngôi đền bề thế, khang trang. Ban đầu, ngôi đền được xây dựng ngoài bãi ven sông Hồng, trên một bãi đất rộng mấy chục mẫu, dân cư sống thành làng. sau vì nước lũ xói mòn, bãi bị lở nên đền phải dời vào vị trí như hiện nay.

Đền áp sát vào khu vực đê bối ven sông Hồng. Bốn cột đồng trụ xây ngay trên mặt đê, mặt quay ra sông theo hướng Bắc, cao vượt tầm những cây cổ thụ xung quanh. Sân đền nằm dưới chân đê bối, phải qua 6 bậc mới xuống được. Giữa hai cột đồng trụ là cổng chính, hai bên là hai cổng phụ tấm mái cửa vòm. Đền được kiến trúc theo kiểu chữ tam khép kín, đằng trước là 7 gian tiền đường với hệ thống vì kèo biến thể giá chiêng chồng rường con nhị.

Công trình này trốn cột, các xà đều gác lên tường. Hai đầu hồi bít đốc, mái lợp ngói nam. Ba gian giữa có hệ thống cửa gỗ lim bức bàn, phần trên cửa là chấn song con tiện. Khu trung đường làm cao lên hẳn theo kiểu chồng diêm gồm hai tầng mái, mỗi lớp 4 mái có đao góc uốn cong, mái được lợp bằng ngói vẩy. Mặt trước ba gian chính tẩm là hệ thống cửa bức bàn. Công trình được khép kín bởi hai dãy nhà 3 gian nối khu chính tẩm với khu trung đường, dãy nhà 3 gian ở phía tây khu trung đường và bức tường xây phía đông khu trung đường nối với tòa tiền đường. Ngôi đền chắc chắn đã trải qua nhiều lần trùng tu, hiện nay đền mang phong cách kiến trúc của thế kỷ XIX.

Đền còn giữ lại được một số hiện vật quý. Chẳng hạn ở đây còn giữ được chiếc khánh thời Lê Trung Hưng, nó được đúc vào năm Kỷ Mão niên hiệu Chính Hòa năm thứ 20 (1699), quả chuông đồng đúc vào thời Tây Sơn, năm Cảnh Thịnh cửu niên (1801), pho tượng đồng tạc bà Vũ không rõ niên đại.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:25 PM | Message # 23
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Đền Lăng

Đền Lăng còn đươc gọi là đền Ninh Thái (Ninh Thái linh từ). Đền ở xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm, Hà Nam.

Từ Thị xã Phủ Lý xuôi theo đường 21 khoảng 7km, đến phố chợ Động, rẽ tay phải theo đường rải đá liên huyện 1km về đến thôn Côi, tiếp tục rẽ tay phải 1km sẽ tới Đền Lăng.

Đền Lăng thờ vua Đinh, vua Lê và Tam vị đại vương. Theo ngọc phả, truyền thuyết địa phương cùng nội dung khắc trên bài vị thờ tại chính tẩm thì vị vua thứ nhất được thờ ở đây là vua Đinh Tiên Hoàng có công dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước. Liêm Cần là nơi mà vua Đinh đã lập căn cứ tuyển quân, vừa là nơi huấn luyện quân sĩ. Theo nhân dân địa phương, vị trí đền thờ hiện nay chính là nơi đóng quân khi xưa của vua Đinh.

Đền Lăng còn là nơi thờ Lê Đại Hành và hai con của ông là lê Trung Tông và Lê Ngọa Triều. Tương truyền, Lê Hoàn quê gốc ở Tràng An nhưng đời ông nội của ông là Lê Lộc đã dời đến Liêm Cần, ở đây có dấu tích một khu đất bằng phẳng mà nhân dân địa phương kể đó là dấu nhà cũ của Lê Lộc. Nơi đây còn có núi Côi, tương truyền có địa danh Mả Dấu là nơi ông nội Lê Hoàn được hổ đưa vào an táng khi hổ nhận ra mình giết nhầm bố nuôi. Núi Côi tương truyền còn có đàn thề mà Lê Hoàn lập ra tế trời đất thề cùng nghĩa quân phù Đinh đồng thâm trừ mối loạn, thu giang sơn về một mối. Trên mảnh đất Bảo Thái, Liêm Cần này có mộ tổ họ Lê, nơi tương truyền từng có sinh từ xưa kia của Lê Hoàn.

Đền Lăng còn thờ Tam vị Đại vương. Ba vị đại vương đó là hai vợ chồng ông Nguyễn Minh tương truyền quê ở Bảo Thái, là tướng tài của Lê Hoàn, ra sức phù Đinh dẹp loạn và vị thứ ba là vị thần Thiên Cương đã báo mộng cho ông nên phù Đinh trừ loạn nước.

Đền Lăng hiện nay còn lại tòa tiền đường, cung đệ nhị và cung chính tẩm được trùng tu vào đời Nguyễn. Tòa tiền đường làm theo kiểu mái con chồng diêm và được dành nhiều mảng chạm khắc công phu nhất. Hệ thống cột cái, hệ thống câu đối ở đây tạo vẻ chắc khỏe và mềm mại cho tòa tiền đường. Ở hai vì gian giữa có lớp lớp các mảng phù điêu chạm rồng, ly, quy rất công phu. Trên trụ non đấu rế còn được tạo thành mâm ngũ quả với đào lựu sinh động. Một số mảng mê còn chạm rồng chầu, chim phượng và hoa cúc rất tinh tế. Để gánh 4 trụ non, thợ chạm tạo 4 con nghê ghé vai đội trụ một cách sinh động, không rập khuôn, gò bó. Điều đặc biệt là các đề tài dân gian được khắc hoạ một cách khéo léo. Trên vì phía đông, người thợ khéo thể hiện một con thú bên hồ sen trong tư thế dấu mình, lẩn trốn trong lá sen cách điệu. Còn vì bên kia là cảnh con hổ đang ôm một cái dó lớn, bên cạnh đó là một con hổ khác đang đeo chiếc giỏ ở cổ.

Phía trong tòa tiền đường là đệ nhị cung và chính tẩm. Hai cung này chung một tòa bốn gian rộng, thiết kế theo phong cách thượng gường hạ kẻ. Hệ thống cột chính gồm 10 chiếc làm bằng gỗ lim theo kiểu búp đòng, đầu cột thon ngậm xà, chân cột thu nhỏ để hợp với hệ thống chân tảng. Cửa cung cấm được thiết kế ngạch ngưỡng theo lối cổ, vừa cắt mòn vừa soi chỉ. Tòa tiền đường, cung đệ nhị và cung chính tẩm đều được lợp bằng ngói nam cùng với hệ thống giao góc, dấu trụ, bờ dải, bờ nóc khiến Đền Lăng tuy không còn đầy đủ như xưa nhưng vẫn còn giữ được vẻ cổ kính của một công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật.

Tất cả các cột của ba tòa đều được đặt trên chân tảng kích thước 50x50cm. Chân tảng đục nối gương tròn theo cấp để định vị chân cột, vừa là trang trí tôn nâng đại trụ làm cho đẹp công trình. Điều đặc biệt là tòa chính điện của tòa đệ nhị còn có bức cửa võng, vừa gắn với câu đầu, với cột cái. Công trình đục chạm công phu, tạo chương với cảnh lưỡng long chầu nguyệt tinh vi nghệ thuật, tạo riềm trên, riềm dưới, riềm hai bên với những băng lá sòi, những mảng long vân, phượng vũ có sức truyền cảm cao. Trung tâm cửa võng nổi bốn chữ "Thánh cung vạn tuế" trong khung tròn rất đẹp. Cửa võng được sơn son thiếp vàng màu sắc óng ánh, ấm áp giúp cho công trình thêm hấp dẫn.

Đền Lăng còn lưu giữ khá nhiều đồ thờ tự, các đồ thờ của đền Lăng đều mới được sơn son thiếp vàng theo phương pháp cổ truyền. Do vậy khi tới đây mọi người đều cảm nhận sự lộng lẫy, uy nghi bởi đồ thờ tại các cung chỉnh tẩm, đệ nhị và tiền đường. Trước hết phải kể đến chiếc ngai thờ đời Hậu Lê được chạm trổ công phu. Đây là chiếc ngai lớn quy cách 110x70x55cm có dáng khoẻ và chạm nổi, chạm thông phong ở tay ngai, sập ngai thật cầu kỳ đẹp mắt. Những con rồng uốn lượn theo thế long thăng ở trụ, những hàng rèm sen dẹo, lá sòi hay khắc vạch song song… đều được thể hiện rất tinh tế. Những khung chữ nhật, khung vuông hay đường nét phóng khoáng trên riềm ở lưng ngai đều được chạm thông gió hoặc kênh bong các cảnh tứ linh, lá và hoa thật tài tình.

Bốn chiếc long đình có từ thế kỷ XIX trong có bài vị long ngai thờ vua Đinh, 3 cha con vua Lê Đại Hành. Trong các long đình có bài vị, long ngai thờ vua Đinh, Lê Đại Hành và Trung Tôn, Ngọa triều đều vào cỡ lớn tới 170cm và được tạo đáng theo tỷ lệ cân xứng, đặc biệt là chạm nổi, chạm thông phong nhiều đề tài hoa, lá, long, ly, quy, phượng rất tinh tế. Những hiện vật thế kỷ XIX này còn phảng phất đường nét Hậu Lê, song dáng cao, các xà đố thanh thoát mang phong cách thời Nguyễn. Đây cũng là hiện vật đặc trưng giai đoạn chuyển hóa giữa hai nền văn hóa Hậu Lê-Nguyễn.

Ngoài ra ở đây còn đôi hạc thờ thời Hậu Lê, đối tượng người nô lệ, chiếc sập thờ và hòm sắc đời Nguyễn… Đôi hạc thờ đền Lăng cao 250cm cũng được tạo dáng sinh động, tư thế đứng chầu nghiêm túc, đôi cánh cụp sát thân, chiếc cổ cất cao chầu mà không cứng nhắc, chứng tỏ nghệ nhân đã kết hợp nhuần nhuyễn thực tế với cách điệu. Đáng lưu tâm hơn là lớp lớp lông cánh như lá hòa lại, như cài vào nhau rất tự nhiên. Trang trí trên đầu bờm gáy và cả bàn chân bám trên lưng rùa cũng được thể hiện một cách linh hoạt.

Hương án đặt tại cung đệ nhị quy cách 145x68x165cm còn tốt, thoáng nhìn thấy lộng lấy, nhìn kỹ mới thấy hết cái tinh túy, độc đáo mà tiền nhân để lại cho con cháu đời sau. Đây là loại hương án tạo sự kết hợp kết câu lồng hai phần trên và phần dưới vào nhau, phần trên gồm bao loan, mặt hương án, cổ, riềm cổ và phần trên của chân, được gia công rất khéo, khi lồng vào rất khớp với phần thân dưới. Điều đặc biệt là bố cục hoạ tiết rồng chầu mặt trăng cùng với băng cánh sen ở riềm mặt hương án rất ăn ý với mô típ lá chòi uyển chuyển và bố cục long vân, hổ phù ở riêm cổ hương án. Chân hương án làm nổi hẳn ra, chạm chữ thọ cùng họa tiết rồng bay thật tinh xảo, cầu kỳ. Phần thân thì tạo thành những ô hoặc vuông, hoặc chữ nhật, quy cách khác nhau. Nhiều đề tài điêu khắc tứ linh, hoa lá khác nhau nhưng đề tài nào cũng được thể hiện công phu. Ấn tượng chung về các mảng chạm khắc ở đấy là nhiều mà không rậm, không thừa, càng nhìn càng nhận ra sự tinh xảo trong nghệ thuật và kỹ thuật thể hiện.

Chiếc sập thờ ở chính tẩm là hiện vật của thời Nguyễn nhưng cũng là loại đồ thờ quý hiếm. Sập có quy cách 220x180x85cm làm theo kiểu chân quỳ, khoẻ mà không nặng nề, ít cầu kỳ nhưng rất đẹp. Bao loan ở bốn góc mặt sập tạo ô hoạ tiết đơn giản nhưng rất đẹp. Cổ sập chạm nổi, chạm thông gió long hóa, tứ linh, chân sập tạo kiểu chân quỳ dạ cá với mây tản, lá lật cách điệu như bay, như cuốn, gây xúc cảm nhẹ nhàng cho người thưởng thức.

Ngoài ra, đền Lăng còn giữ được đôi quán tẩy thời Hậu Lê, đôi tượng người nô lệ và một số đồ thờ thời Nguyễn được chạm khắc tinh thế, sơn son thiếp vàng lộng lẫy.

Kiến trúc cũng như đồ thờ tự nơi đây tạo nên vẻ đẹp của Đền Lăng, một di tích lịch sử văn hoá của Thanh Liêm, Hà Nam. Những sản phẩm văn hoá thời Hậu Lê rất quý hiếm cùng với các đồ thờ tự thời Nguyễn của đền Lăng rất cần được giữ gìn cẩn thận.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:27 PM | Message # 24
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Đền Lảnh Giang

Đền Lảnh Giang còn có tên gọi là Lảnh Giang linh từ, tọa lạc tại thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên. Từ thị trấn Đồng Văn, theo quốc lộ 60A đi 8km đến ngã ba thị trấn Hòa Mạc, rẽ trái đi 5km đến bến đò Yên Lệnh, ngược bờ đê sông Hồng 3km là tới đền.
Tam quan đền Lảnh Giang

Theo thần phả, ngôi đền này thờ Tam vị danh thần đời Hùng Vương thứ 18 và Tiên Dung công chúa, Chử Đồng Tử. Tam vị danh thần là 3 con rắn, con của nàng Quý người trang Hoa Giám (nay là xã Yên Lạc) có công giúp vua Hùng Duệ Vương chống lại Thục Phán, được phong là Nhạc Phủ Ngư thượng đẳng thần, sau được gia phong là Trấn Tây An Tam Kỳ Linh ứng thái thượng đẳng thần. Trên mảnh đất này còn lưu truyền câu chuyện quen thuộc về Tiên Dung và Chử Đồng Tử trong kho tàng truyện kể dân gian Việt Nam.

Đền tọa lạc trong khuôn viên 3.000 m2, nơi đây không có núi đồi, nhưng bạt ngàn màu xanh của cây trái; rừng nhãn, bến nước, đầm sen, phảng phất hào khí của một miền địa linh nhân kiệt, phồn thịnh êm đềm. Cửa đền nhìn ra hướng đông dòng sông Nhị Hà (sông Hồng), bốn mùa mênh mang sóng nước. Từ ngàn đời nay, sông lặng lẽ chở từng hạt phù sa bồi lên miền quê đất bãi. Giữa sông nổi lên một cồn cát, khiến dòng chảy đột ngột chia thành hai nhánh mà vô tình tạo ra ngã ba sông. Phải chăng cái tên Tam Giang, Lảnh Giang được đặt từ đây(?). Phía tây đền (cách 300m), mượt mà mầu xanh non của lúa, bảng lảng khói lam chiều, thấp thoáng đền thở Đức Vua (vua Lê). Giáp xã Mộc Nam về phía bắc Lảnh Giang, thôn Yên Từ, Mộc Bắc trầm mặc ngôi đền thờ Ngọc Hoa công chúa, em gái Tiên Dung. Phía nam giáp làng Nha Xá, đình thờ Trần Khánh Dư, vị tướng tài giỏi của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, người đã có công đánh giặc Nguyên Mông trên chiến tuyến Vân Đồn (Quảng Ninh). Theo các cụ cao niên kể lại, có một thời Trần Khánh Dư ngụ tại đình Nha Xá, ông đã mang nghề dệt về cho dân làng. Cảm phục tài cao , đức trọng của ông, nhân dân suy tôn ông là Thành Hoàng làng.
Trong sân đền

Ngôi đền được xây dựng từ bao giờ, đến nay chưa có tài liệu khẳng định. Căn cứ vào chữ Hán khắc trên cây nóc ở tòa đệ nhị thì đền Lảnh Giang được trùng tu lần cuối cùng vào niên hiệu Bảo Đại năm thứ 18 (1944). Trải qua nhiều lần tu sửa, đến nay đền Lảnh Giang có quy mô bề thế.

Đến đây du khách không khỏi ngạc nhiên trước một công trình kiến trúc đồ sộ, uy linh. Tam quan xây theo kiểu chồng diêm tám mái, các đầu đao cong vút thanh thoát hình đầu rồng đắp nổi, đan xen mặt nguyệt, lá lật cách điệu mềm mại. Phía trước Tam quan là hồ bán nguyệt, nước hồ phẳng lặng như bàn ngọc thạch bày lên những đóa hoa súng đỏ tươi. Giũa hồ, ngọn bảo tháp đứng trầm mặc được nối với cửa đền bằng chiếc cầu cong tạc hình lưỡi long hướng địa, ẩn hiện dưới bóng cây si già hàng ngàn năm tuổi.

Đền Lảnh Giang được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc gồm 3 tòa, 14 gian, hai bên có nhà khách, lầu thờ, 4 bên có tường gạch bao quanh. Trong đền có nhiều đồ thờ giá trị như tượng Tiên Dung công chúa, khánh long đình, khám đặt tượng thờ 3 vị tướng thời Hùng vương được chạm khắc công phu theo phong cách đời Lê. Ngoài ra đền còn giữ được hai kiệu bát cống long đình, một sập thờ và nhiều hoành phi, câu đối, nhang án. Kề bên đền Lảnh Giang về phía bờ sông là ngôi đền thờ Cô Bơ Thoải Phủ (hệ thống thờ Đạo Mẫu Việt Nam).

Mộc Nam, một miền quê cổ tích, hương khí đất trời hòa nhật trong trẻo, tạo nên vẻ thánh thiện nguyên sơ vốn có của vùng đất bãi, như du hồn ta về với Lảnh Giang. Gió từ các ngả sông ùa vào đền lung linh huyền thoại, âm âm truyền thuyết về nàng Quý, Tiên Dung, Chử Đồng Tử.

Ngày xưa, ở trang An Cố huyện Thuỵ Anh - phủ Thái Ninh - trấn Sơn Nam, có vợ chồng ông Phạm Túc ăn ở phúc đức, chỉ hiềm một nỗi ông bà đã cao tuổi mà vẫn chưa sinh được mụn con nối dõi.

Một đêm trăng thanh, gió mát, vợ ông (bà Trần Thị Ngoạn) đang dạo chơi, bỗng gặp một người con gái nhà nghèo, cha mẹ mất sớm, không có anh em thân thích, đi tha phương cầu thực. Động lòng trắc ẩn, bà Ngoạn liền đón cô gái về làm con và đặt tên là Quý. Ông bà coi nàng Quý như con ruột của mình. Vài năm sau, trong lúc gia đình đang vui vầy, đột nhiên ông Túc mắc bệnh rồi qua đời. Hai mẹ con đã tìm nơi đất tốt để an táng cho ông.

Sau ba năm để tang cha, một hôm nàng Quý ra bờ sông tắm gội, đang lúc ngâm mình dưới nước, bỗng mặt nước nổi sóng, từ phía xa một con thuồng luồng khổng lồ bơi tới quấn ba vòng quanh mình nàng, khiến nàng kinh hoàng mà ngất lịm, lúc sau thuồng luồng bỏ đi. Từ hôm đó, nàng thấy trong lòng chuyển động và mang thai. Không chịu được những lời dèm pha, khinh thị, nàng đành phải trốn khỏi làng đến xin ngụ cư ở trang Hoa Giám (nay thuộc thôn Yên Lạc). Thời gian thấm thoát thoi đưa, ngày mùng 10 tháng giêng năm Tân Tỵ, nàng chuyển dạ, sinh ra một cái bọc. Cho là điềm chẳng lành, nàng đem cái bọc quẳng xuống dòng sông. Chiếc bọc trôi theo dòng nước tới trang Đào Động (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình), mắc phải lưới của ông Nguyễn Minh. Sau nhiều lần gỡ bỏ, nhưng bọc vẫn cứ mắc vào lưới. Ông Minh thấy lạ bèn khấn: “Nếu bọc này quả là linh thiêng thì cho tôi lấy dao rạch thử xem sao”. Khấn xong, ông Minh rạch ra bỗng thấy ba con rắn từ trong chiếc bọc trườn xuống dòng sông. Con thứ nhất theo hướng cửa sông Đào Động, con thứ hai về Thanh Do, con thứ ba về trang Hoa Giám (nơi nàng Quý đang sống). Nhân dân các trang ấp ở đay thấy đều sợ hãi, cùng nhau ra bờ sông tế tụng, xin được lập sinh từ để thờ.

Lạ thay, vào một đêm trăng sáng, trời bỗng nổi giông, ngoài cửa sông sấm sét nổi lên dữ dội. Đến gần sáng, gió mưa ngớt dần, mọi người đều nghe thấy dưới dòng sông có người ngâm vịnh:

"Sinh là tướng, hoá là thần,
Tiếng thơm còn ở lòng dân muôn đời.
Khi nào giặc dã khắp nơi,
Bọn ta mới trở thành người thế gian."

continute...


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:28 PM | Message # 25
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Bấy giờ Thục Phán thuộc dòng dõi tôn thất vua Hùng thấy Duệ Vương tuổi đã cao mà không có con trai, nên có ý định cướp ngôi. Thục Phán cầu viện binh phương Bắc, chia quân làm 5 đường thủy bộ cùng một lúc đánh vào kinh đô. Duệ Vương cho gọi tướng sĩ lập đàn cầu đảo giữa trời đất. Đêm ấy, nhà vua chiêm bao thấy có người sứ giả mặc áo xanh từ trên trời bước xuống sân rồng, truyền rằng: “Nhà vua nên triệu ba vị thủy thần sinhở đạo Sơn Nam, hiện còn là hình con rắn thì tất sẽ dẹp xong được giặc”. Tỉng dậy, Duệ Vương liền sai sứ giả theo đường chỉ dẫn trong giấc mộng tìm về đạo Sơn Nam. Sứ giả vừa đến trang ĐÀo Động, bỗng nhiên trời đổ mưa to, sấm sét nổi lên dữ dội ở cửa sông. Một người mặt rồng, hình cá chép, cao tám thước đứng trước sứ giả xưng tên là Vĩnh, xin được đi dẹp giặc. Sau đó ông Vĩnh gọi hai em đến bái biệt thân mẫu rồi cùng nhau đến yết kiến vua Duệ Vương. Vua Hùng Liền phong cho ông là Trấn Tây, giữ các vùng Sơn Nam, Ái Châu, Hoan Châu. Hai em và các tướng hợp lại dưới sự chỉ huy của ông, năm đạo quân Thục đều bị tiêu diệt.

Nghe tin thắng trận, Duệ Vương liền truyền lệnh giết trâu, mổ bò khao thưởng quân sĩ. Vì có công lớn, nhà vua phong ông là Nhạc Phủ Ngư Thượng Đẳng Thần, nhưng ông không nhận, chỉ xin cho dân Đào Động hàng năm không phải chịu sưu dịch. Được vua đồng ý, ông Vĩnh cùng hai em về quê bái yết thân mẫu và khao thưởng gia thần, dân chúng. Thấy ở bên sông có khu đất tốt, ông Vĩnh cho lập đồn dinh cư trú, khuyến khích nông trang, khuyên mọi người làm việc thiện lương. Nhờ công đức của ông mà nhân dân khắp vùng được sống yên vui.

Ngày 25 tháng 8 năm Bính Dần, trong lúc ông đang ngự tại cung thất của mình, bỗng dưng giữa ban ngày trời đất tối sầm, mưa gió ầm ào đổ xuống. Khi trời quang mây tạnh, dân làng không còn nhìn thấy ông đâu nữa. Cho là điều kỳ lạ, nhân dân trang Đào Động làm biểu tâu với triều đình. Được tin ông Phạm Vĩnh về trời, nhà vua liền gia phong cho ông là Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ứng Thái Thượng Đẳng Thần, đồng thời đặt lệ, ban sắc chỉ cùng tiền cho dân Đào Động rước thần hiệu, tu sửa đền miếu phụng thờ.

Các triều đại sau đó đều có sắc phong cho ông, tất cả 12 sắc. Sắc sớm nhất là đời Lê Cảnh Hưng, sắc muộn nhất vào triều Nguyễn, niên hiệu Duy Tân thứ 7 (1913).

Cùng trên mảnh đất thiêng này có câu chuyện về mối tình Tiên Dung, Chử Đồng Tử từ ngàn xưa còn vọng đến hôm nay. Thủa ấy, ở thôn Đằng Châu có một nhà nghèo gặp cơn hỏa hoạn. Hai cha con chỉ còn một manh khố ngắn dùng chung để khi có việc ra ngoài. Lúc người cha qua đời, Chử Đồng Tử đã dành chiếc khố cuối cùng khâm liệm cha. Từ đó ngày ngày chàng thường phải ngâm mình dưới nước.

Một hôm, Tiên Dung con gái vua Hùng đi du ngoạn, cảm nhận cảnh sông nước nên thơ, công chúa cho dừng thuyền lại bên bãi cát. Chử Đồng Tử đang mò cá dưới sông, nhìn thấy thuyền rồng, cờ rong lọng tía mà kinh sợ, vội vàng vùi mình dưới cát. Ngay lúc đó Tiên Dung sai các thị nữ quây màn để tắm đúng vào nơi mà Chử Đồng Tử ẩn nấp. Nước xối từ trên người nàng, trôi dần cát ở dưới chân, lộ Chử Đồng Tử trong màn quây. Sau giây phút ngỡ ngàng, cả hai người cho là duyên trời đã định, cùng nhau về triều xin phép vua cha cho kết duyên thành vợ chồng. Chử Đồng Tử, Tiên Dung đã về trời nhưng tình yêu, lòng hiếu thảo còn ở lại mãi với trần gian.

Trần Danh Lâm (1705-1777) khi về thăm Lảnh Giang đã có bài thơ:

"Con gái vua Hùng, tướng vua Hùng,
Đền này truyền việc lại nhà thờ chung.
Sự nghiệp nhân duyên thì rất đẹp,
Tình đời chẳng đẹp đáng thau không."

Theo các học giả, dựa vào các tư liệu thành văn (thần phả, sắc phong) và đặc điểm kiến trúc ngôi đền cũng như truyền thuyết địa phương, mốc thời gian xây dựng đền vẫn chưa có tài liệu khẳng định. Ngôi đền còn lại hôm nay, hẳn rằng qua các triều đại trước đó, công trình đã được tu sửa nhiều lần, căn cứ vào những chữ Hán khắc trên cây nóc ở toà đệ nhị thì đền Lảnh Giang được trùng tu lại lần cuối vào niên hiệu Bảo Đại năm thứ 18 (1926-1945).

Bởi sự khắc nghiệt của thời gian, trải bao thăng trầm lịch sử, ngôi đền đã bị xuống cấp. Những năm qua được sự quan tâm, chỉ đạo, lãnh đạo của chính quyền địa phương, ngành văn hoá các cấp cùng bách gia trăm họ công đức, đền đã được tu sửa làm cho đền Lảnh Giang trở thành khu di tích quy mô, bề thế nhưng không mất đi dáng vẻ xưa của ngôi đền.

Ngoài giá trị tâm linh, đền Lảnh Giang còn là trung tâm của các cơ sở cách mạng trên đất Mộc Nam, ngọn cờ búa liềm sớm nhất được treo trên cây đa đình làng Yên Lạc (1931). Tháng 7/1945 nhân dân tập trung ở sân đền nghe đồng chí Lê Thành tuyên truyền chủ trương của phong trào cách mạng. Ngày 20/8/1945 nhân dân tập trung ở sân đền kéo về huyện lỵ tham gia cướp chính quyền…Tháng 10/1946 chi bộ đầu tiên của tổng Mộc Hoàn và Ủy ban hành chính kháng chiến khu Mộc Hoàn được thành lập ở đây. Đền Lảnh Giang là cơ sở tin cậy để các cán bộ, đảng viên huyện về nằm vùng hoạt động, theo dõi tình hình địch, lãnh đạo tổ chức chính quyền cách mạng kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:35 PM | Message # 26
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Đền Trần Thương

Đền Trần Thương ở thôn Trần Thương, xã Đạo Lý, huyện Lý Nhân, Hà Nam.
Từ Thị xã Phủ Lý, theo quốc lộ 62 về thị trấn Vĩnh Trụ 14km, tiếp tục đi thẳng 2km về phía Cầu Không, đến cống làng Tróc rẽ trái tới đền Trần Thương.

Đền Trần Thương như tên gọi đã ghi rõ (Trần Thương: kho của nhà Trần) được xây dựng trên một khu đất rộng, nằm biệt lập ở phía đầu làng, trên nền cũ kho lương thực đời Trần trong cuộc sống chống quân xâm lược lần thứ hai. Đền được xây dựng trên thế đất "hình nhân bái tướng", ở giữa là gò nổi tựa mai con rùa, hai bên tạo thành hai tay ngai, xung quanh là những hồ nước được trồng sen.

Ngoài cùng là tam quan ngoại. Cửa chính cao hai tầng, tầng dưới được cuốn hình vòm, xung quanh có trang trí hoa văn, tầng trên là gác chuông tám mái. Bên trong gác chuông có treo một quả chuông lớn. Hai cổng phụ của tam quan có đôi ngựa được đắp nổi phía dưới, phía trên là hoa sen. Bức tường ngoài cùng của tam quan là đôi voi chầu cùng hoa sen, hoa cúc và đôi cột có đèn lồng và đôi nghê chầu phía trên.

Qua tam quan là con đường chính lát gạch đỏ rộng rãi đi vào sân đền. Trước cột đồng trụ là hai cái giếng hai bên được kè đá xanh. Qua hàng cột trụ bề thế là mọt bức bình phong, chính giữa là chữ thọ, xung quanh là cảnh rồng chầu, phượng múa.

Tiếp theo là công trình chính. Ngôi đền được thiết kế theo kiểu chữ quốc: Tòa tiền đường 5 gian, tiếp đến là hai dãy nhà khách chạy dọc, giữa là cái giếng mà nhân dân gọi là hố khẩu, tiếp đến là tòa đệ nhị 5 gian, sau cùng là hậu cung 3 gian.

Phía trước gian giữa của tòa tiền đường có dựng một tòa cổ lâu 2 tầng, giữa mái trên và mái dưới là bức đại tự "Phong vân trường hộ", ở giữa đặt một đỉnh hương bằng đá có đôi nghê chầu. Tòa tiền đường được kiến trúc theo lối chồng rường, hai đầu xây bít đốc dật cấp, mái lợp ngói nam, mắt trước là dãy cửa bức bàn. Phía trên gian giữa có treo bức đại tự "Văn đức võ công". Nối với hai gian đầu hồi của tòa tiền đường là hai dãy nhà khách chạy dọc nhìn ra giếng rùa, mỗi dãy 3 gian tạo thành hành lang nội từ tòa tiền đường vào tòa đệ nhị. Tòa đệ nhị 5 gian xây bằng gạch cao hơn tòa tiền đường và nhà khách, lợp ngói ống cung đình đời Nguyễn, bờ nóc hai đầu hồi đắp hai con rồng lớn, phần giữa mái trên và mái dưới là các ô có đắp chữ Hán. Phần hậu cung 3 gian được nối từ tường của tòa đệ nhị xuôi về sau, lợp ngói ống, bộ cửa bức bàn gồm 3 cửa được sơn son thiếp vàng lộng lẫy.

Đền Trần Thương thờ một vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo và song thân của người. Là một vị anh hùng dân tộc đã hiển thánh. Trong tâm đức người dân, ông là Đức Thánh Cha. Trần Hưng Đạo được thờ ở nhiều nơi ở Hà Nam mà Trần Thương là ngôi đền quy mô, bề thế nhất, có thể so sánh vị trí của nó với những nơi thờ tự Ngài lớn nhất trong cả nước. Dân gian có câu, "sinh Kiếp Bạc, thác Trần Thương, quê hương Bảo Lộc" chính là để nói đến địa danh Trần Thương này, bởi cách Trần Thương 3km về phía đông theo đường chim bay là khu Tam Đường – nơi đặt khu lăng mộ nhà Trần, về phía nam khoảng 20km là Thiên Trường (quê hương nhà Trần).

Theo các cụ cao tuổi ở các thôn Đội Xuyên, Hoàng Xá, Khu Mật kể lại thì xưa kia, nơi đây chỉ là một bãi sậy um tùm có rải rác một ít gò cao xen kẽ có dân cư ở thưa thớt nhưng có vị trí giao thông hết sức thuận lợi: có thể vào sông Châu, ra sông Hồng ngược lên Thăng Long hoặc xuôi ra biển. Do đó, Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Vương đặt ở đây một kho lương thực với một đội quân thường xuyên canh gác để phục vụ cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ hai (1285).

Sau khi chiến thắng trở về ngài cắm sinh phần, lấy dân ở đây làm tạo lệ, từ đó làng có tên là Trần Thương. Sử sách không ghi chép về kho lương thực của nhà Trần ở đây nhưng truyền thuyết dân gian cùng với những dấu tích đậm đặc quanh khu vực đền Trần Thương như mảnh gổm, sứ màu đen, men nâu, vàng ngà của bát đĩa vỡ có phong cách trang trí của nghệ thuật gồm thời Trần, nhiều vỏ chóe hoa than… đã củng cố thêm giả thuyết này.
Đền Trần Thương còn giữ lại được nhiều đồ thờ tự có giá trị như hương án, sập thờ bằng đá, ngai thờ, khám thờ và tượng Hưng Đạo Đại Vương.

Trong các đồ thờ tự của đền, ngoài những đồ gốm sứ như lục bình, bát hương, bát đĩa, chén đôn, đồ đá như rùa, nghê, bát hương, đền còn giữ lại chiếc kiếm bạc có vỏ được làm bằng đồi mồi rất quý, chỉ được đưa ra thờ vào những ngày lễ hội. Những đồ thờ tự này càng tăng thêm tính thiêng cho ngôi đền mang đậm dấu ấn lịch sử và tính chất văn hóa này.

Cũng như những nơi thờ Hưng Đạo Đại Vương khác, đền Trần Thương tổ chức lễ hội tưởng nhớ vị anh hùng dân tộc này vào ngày 20 tháng 8 âm lịch hàng năm (dân gian có câu: Tháng Tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ là để nói về hai lễ hội lớn về hai vị thánh: Đức thánh Trần (Trần Hưng Đạo), Đức thánh mẫu (Liễu Hạnh)). Lễ hội theo quy định được tổ chức 3 ngày nhưng trên thực tế có thể dài hơn bởi vì số lượng người về lễ đăng ký dự tế khá đông nên cần thêm ngày để bố trí cho các đội tế. Mỗi ngày có 4 đến 5 đám tế, từ rằm tháng 8 đã có đoàn đến tế ở đền.

Vào ngày chính hội, phần lễ có rước kiệu, dâng hương, tế lễ, phần hội có các trò đánh cờ tướng, bơi chải, đi cầu kiều, tổ tôm điểm… Thu hút sự quan tâm của nhiều người nhất là tục thi đấu cờ tướng. Tục này diễn ra trước các trò hội. Khi tiếng trống nổi lên báo hiệu cuộc chơi thì các đấu thủ cùng dân làng đến sân đền tham dự. Làng chọn các lão làng, các chức sắc có gia phong tốt vào khai cuộc, trong đó, người cao tuổi nhất được làm chủ tế. Chủ tế làm lễ cáo yết Đức Thánh Trần rồi rước bàn cờ từ hậu cung quay ra, đến trước hương án nâng bàn cờ lên vái ba vái. Sau đó, cuộc chơi bắt đầu. Hai đấu thủ mang y phục truyền thống của các tướng lĩnh đời Trần mang thanh long đao vào cuộc. Sau một tuần hương, ai thắng, người đó đoạt giải. Vãn cuộc, quân cờ cùng bàn cờ được rửa bằng nước giếng của đền và nước ngũ quả, lau chùi cẩn thận rồi đặt lên hương án. Tục chơi cờ nhằm tưởng nhớ tài thao lược quân sự của Hưng Đạo Đại Vương, rèn luyện trí tuệ, nêu cao truyền thống chống giặc ngoại xâm của ông cha ta.

Lễ hội đền Trần Thương là một trong 3 lễ hội vùng của tỉnh Hà Nam. Lễ hội này có ý nghĩa là một cuộc hành hương về cội nguồn không chỉ đối với người dân địa phương mà đối với người dân cả nước.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
phuocdeptraiDate: Tuesday, 2010-11-23, 3:39 PM | Message # 27
Trung Tướng
Group: Admin
Messages: 561
Reputation: 5
Status: Offline
Hang Luồn – Ao Dong

Từ thị xã Phủ Lý qua cầu Hồng Phú, theo quốc lộ 21, đến cây số 11, rẽ trái 500m là tới hang.

Trước cửa hang, có hai quả núi thấp đứng đối nhau tạo nên một cửa đá đồ sộ chắn ngang trước cửa hang. Mặt bằng trước hai quả núi này rất rộng, đây là một điểm dừng chân lý tưởng để ngắm toàn cảnh khu vực núi non và hang Luồn.

Đây là khu vực được bao bọc xung quanh bởi các dãy núi cao, ở giữa thung lũng này nổi lên một dãy núi thấp, dãy núi này có hang Luồn. Miệng hang Luồn chính là mặt trước của dãy núi nhìn ra cửa đá. Trước mặt hang là một bãi đất rộng có một con kênh lớn chứa nhiều nước. Về mùa mưa, đây là một bến thuyền. Mùa cạn có thể vừa đi thuyền, vừa đi bộ xuống cửa hang. Nguồn nước ở đây từ các khe núi cao đổ xuống, tỏa vào các kênh, các mạch ngầm rồi dẫn ra sông Đáy. Chính vì vậy, nước rất trong và sạch, có thể nhìn thấu đáy. Về mùa mưa, nước dâng lên sát trần hang nhưng cũng chỉ chốc lát là rút hết, chỉ giữ lại một lượng nước vừa đủ để vào hang.

Miệng hang Luồn có hình vòm vách núi, chỗ nhô ra, chỗ lõm vào, chỗ thì chạy thẳng xuống lòng hang, vách thì uốn cong. Đặc biệt có vô số các nhũ đá hình thù muôn vẻ, cái từ trần hang rủ xuống, cái từ vách đá chồi ra kéo dài suốt chiều dài cửa hang. Chiều dài hang Luồn khoảng 400m, chiều rộng của hang vừa đủ cho một đoàn khách đi thuyền ngắm các vách núi với các nhũ đá kỳ lạ và nghe tiếng nước rỏ tí tách. Trong ánh sáng mờ ảo du khách sẽ cảm thấy bập bềnh, rồi du thuyền sẽ đưa du khách tới một không gian mở ra choáng ngợp khi gặp ao Dong.

Ao Dong rộng khoảng 300 mẫu, nước trong vắt có thể nhìn thấy từng con cá bơi, thấy cả thảm thực vật, đặc biệt là các loài rong núi, ngay cả ở mực nước sâu tới 3m. Ao Dong được tạo nên bởi các dãy núi cao, với rừng cây bên sườn núi. Động vật ở đây khá đa dạng, cỏ trắng, sơn dương rất nhiều tạo thêm sự sinh động hấp dẫn cho cảnh quan. Các ngọn núi in bóng xuống làn nước trong vắt của ao Dong tạo nên một bức tranh sơn thuỷ hữu tình.

Hang Luồn, ao Dong với sự kết hợp hài hòa của núi non cây cỏ, trời xanh, nước biếc, quần thể động thực vật hoang dã phong phú là điểm du lịch sinh thái có giá trị của tỉnh Hà Nam.


Cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Rồi âm thầm lặng lẽ ... đạp xích lô .
 
Diễn Đàn 3V » DIỄN ĐÀN 3V » TÀI LIỆU THUYẾT MINH 63 TỈNH THÀNH » HÀ NAM (tất cả về Hà Nam)
  • Page 2 of 2
  • «
  • 1
  • 2
Search:

Bình Chọn
Rate my site
Total of answers: 22
Tin Nhắn
200
Site friends
  • Create a free website